Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 2-33

date
09/11/2020

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998

--- o0o ---

Tập 2

         

QUYỂN THỨ 33

HỘI THỨ NHẤT 

Phẩm

DẠY BẢO DẠY TRAO

Thứ 7 - 23

 

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực hữu nguyện vô nguyện, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu nguyện vô nguyện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực hữu nguyện vô nguyện tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu nguyện vô nguyện tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực viễn ly bất viễn ly, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly bất viễn ly, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực viễn ly bất viễn ly tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng viễn ly bất viễn ly tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực hữu vi vô vi, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu vi vô vi, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực hữu vi vô vi tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu vi vô vi tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực hữu lậu vô lậu, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu lậu vô lậu, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực hữu lậu vô lậu tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu lậu vô lậu tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực sanh diệt, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng sanh diệt, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực sanh diệt tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng sanh diệt tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực thiện phi thiện, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng thiện phi thiện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực thiện phi thiện tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng thiện phi thiện tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực hữu tội vô tội, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu tội vô tội, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực hữu tội vô tội tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu tội vô tội tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực hữu phiền não vô phiền não, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu phiền não vô phiền não, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực hữu phiền não vô phiền não tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hữu phiền não vô phiền não tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực thế gian xuất thế gian, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng thế gian xuất thế gian, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực thế gian xuất thế gian tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng thế gian xuất thế gian tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực tạp nhiễm thanh tịnh, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng tạp nhiễm thanh tịnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực thuộc sanh tử thuộc Niết bàn, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng thuộc sanh tử thuộc Niết bàn, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực ở trong ở ngoài ở giữa hai, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng ở trong ở ngoài ở giữa hai, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

 

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức Phật mười lực hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc Phật mười lực khả đắc bất khả đắc, hoặc bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng khả đắc bất khả đắc, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có Phật mười lực khả đắc bất khả đắc tăng ngữ và bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng khả đắc bất khả đắc tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức Phật mười lực hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi quán nghĩa nào mà nói tức đại từ tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ, hoặc đại bi đại hỷ đại xả, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ thường vô thường, hoặc đại bi đại hỷ đại xả thường vô thường, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ thường vô thường tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả thường vô thường tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ lạc khổ, hoặc đại bi đại hỷ đại xả lạc khổ, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ lạc khổ tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả lạc khổ tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ ngã vô ngã, hoặc đại bi đại hỷ đại xả ngã vô ngã, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ ngã vô ngã tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả ngã vô ngã tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ tịnh bất tịnh, hoặc đại bi đại hỷ đại xả tịnh bất tịnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ tịnh bất tịnh tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả tịnh bất tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc không hoặc bất không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc không hoặc bất không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ không bất không, hoặc đại bi đại hỷ đại xả không bất không, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ không bất không tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả không bất không tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ hữu tướng vô tướng, hoặc đại bi đại hỷ đại xả hữu tướng vô tướng, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ hữu tướng vô tướng tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả hữu tướng vô tướng tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ hữu nguyện vô nguyện, hoặc đại bi đại hỷ đại xả hữu nguyện vô nguyện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ hữu nguyện vô nguyện tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả hữu nguyện vô nguyện tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hoặc đại bi đại hỷ đại xả tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ viễn ly bất viễn ly, hoặc đại bi đại hỷ đại xả viễn ly bất viễn ly, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ viễn ly bất viễn ly tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả viễn ly bất viễn ly tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ hữu vi vô vi, hoặc đại bi đại hỷ đại xả hữu vi vô vi, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ hữu vi vô vi tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả hữu vi vô vi tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ hữu lậu vô lậu, hoặc đại bi đại hỷ đại xả hữu lậu vô lậu, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ hữu lậu vô lậu tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả hữu lậu vô lậu tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ sanh diệt, hoặc đại bi đại hỷ đại xả sanh diệt, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ sanh diệt tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả sanh diệt tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ thiện phi thiện, hoặc đại bi đại hỷ đại xả thiện phi thiện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ thiện phi thiện tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả thiện phi thiện tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ hữu tội vô tội, hoặc đại bi đại hỷ đại xả hữu tội vô tội, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ hữu tội vô tội tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả hữu tội vô tội tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ hữu phiền não vô phiền não, hoặc đại bi đại hỷ đại xả hữu phiền não vô phiền não, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ hữu phiền não vô phiền não tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả hữu phiền não vô phiền não tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ thế gian xuất thế gian, hoặc đại bi đại hỷ đại xả thế gian xuất thế gian, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ thế gian xuất thế gian tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả thế gian xuất thế gian tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ tạp nhiễm thanh tịnh, hoặc đại bi đại hỷ đại xả tạp nhiễm thanh tịnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ thuộc sanh tử thuộc Niết bàn, hoặc đại bi đại hỷ đại xả thuộc sanh tử thuộc Niết bàn, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ ở trong ở ngoài ở giữa hai, hoặc đại bi đại hỷ đại xả ở trong ở ngoài ở giữa hai, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức đại từ hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc đại từ khả đắc bất khả đắc, hoặc đại bi đại hỷ đại xả khả đắc bất khả đắc, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có đại từ khả đắc bất khả đắc tăng ngữ và đại bi đại hỷ đại xả khả đắc bất khả đắc tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức đại từ hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức đại bi đại hỷ đại xả hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ tướng, hoặc tám mươi tùy hảo, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ tướng tăng ngữ và tám mươi tùy hảo tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ tướng tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ thường vô thường, hoặc tám mươi tùy hảo thường vô thường, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ thường vô thường tăng ngữ và tám mươi tùy hảo thường vô thường tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc thường hoặc vô thường tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ lạc khổ, hoặc tám mươi tùy hảo lạc khổ, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ lạc khổ tăng ngữ và tám mươi tùy hảo lạc khổ tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc lạc hoặc khổ tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ ngã vô ngã, hoặc tám mươi tùy hảo ngã vô ngã, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ ngã vô ngã tăng ngữ và tám mươi tùy hảo ngã vô ngã tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc ngã hoặc vô ngã tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ tịnh bất tịnh, hoặc tám mươi tùy hảo tịnh bất tịnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ tịnh bất tịnh tăng ngữ và tám mươi tùy hảo tịnh bất tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc tịnh hoặc bất tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc không hoặc bất không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc không hoặc bất không tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ không bất không, hoặc tám mươi tùy hảo không bất không, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ không bất không tăng ngữ và tám mươi tùy hảo không bất không tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc không hoặc bất không tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ hữu tướng vô tướng, hoặc tám mươi tùy hảo hữu tướng vô tướng, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ hữu tướng vô tướng tăng ngữ và tám mươi tùy hảo hữu tướng vô tướng tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu tướng hoặc vô tướng tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ hữu nguyện vô nguyện, hoặc tám mươi tùy hảo hữu nguyện vô nguyện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ hữu nguyện vô nguyện tăng ngữ và tám mươi tùy hảo hữu nguyện vô nguyện tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hoặc tám mươi tùy hảo tịch tĩnh bất tịch tĩnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ và tám mươi tùy hảo tịch tĩnh bất tịch tĩnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ viễn ly bất viễn ly, hoặc tám mươi tùy hảo viễn ly bất viễn ly, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ viễn ly bất viễn ly tăng ngữ và tám mươi tùy hảo viễn ly bất viễn ly tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ hữu vi vô vi, hoặc tám mươi tùy hảo hữu vi vô vi, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ hữu vi vô vi tăng ngữ và tám mươi tùy hảo hữu vi vô vi tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ hữu lậu vô lậu, hoặc tám mươi tùy hảo hữu lậu vô lậu, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ hữu lậu vô lậu tăng ngữ và tám mươi tùy hảo hữu lậu vô lậu tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ sanh diệt, hoặc tám mươi tùy hảo sanh diệt, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ sanh diệt tăng ngữ và tám mươi tùy hảo sanh diệt tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ thiện phi thiện, hoặc tám mươi tùy hảo thiện phi thiện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ thiện phi thiện tăng ngữ và tám mươi tùy hảo thiện phi thiện tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.

Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Hoặc ba mươi hai đại sĩ hữu tội vô tội, hoặc tám mươi tùy hảo hữu tội vô tội, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có ba mươi hai đại sĩ hữu tội vô tội tăng ngữ và tám mươi tùy hảo hữu tội vô tội tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức ba mươi hai đại sĩ hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, tức tám mươi tùy hảo hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy. 

  

TIN KHÁC