Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998
--- o0o ---
Tập 4
QUYỂN THỨ 94
HỘI THỨ NHẤT
PHẨM CẦU BÁT NHÃ
THỨ 27 –6
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bảo Thiên Ðế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Ngươi trước đã hỏi Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, nên cầu nơi nào ấy. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng nên cầu nơi sắc, chẳng nên cầu nơi thọ tưởng hành thức; chẳng nên cầu rời sắc, chẳng nên cầu rời thọ tưởng hành thức. Sở vì sao? Vì hoặc sắc, hoặc thọ tưởng hành thức; hoặc rời sắc, hoặc rời thọ tưởng hành thức; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng, chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng phải sắc, chẳng phải thọ tưởng hành thức; chẳng phải rời sắc, chẳng phải rời thọ tưởng hành thức. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng phải sắc, chẳng phải thọ tưởng hành thức; chẳng phải rời sắc, chẳng phải rời thọ tưởng hành thức. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi sắc, chẳng nên cầu nơi thọ tưởng hành thức; chẳng nên cầu rời sắc, chẳng nên cầu rời thọ tưởng hành thức.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ; chẳng nên cầu rời nhãn xứ, chẳng nên cầu rời nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Sở vì sao? Vì hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ; hoặc rời nhãn xứ, hoặc rời nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhãn xứ, chẳng nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chẳng rời nhãn xứ, chẳng rời nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhãn xứ, chẳng nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ; chẳng rời nhãn xứ, chẳng rời nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhãn xứ, chẳng nên cầu nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ; chẳng nên cầu rời nhãn xứ, chẳng nên cầu rời nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi sắc xứ, chẳng nên cầu nơi thanh hương vị xúc pháp xứ; chẳng nên cầu rời sắc xứ, chẳng nên cầu rời thanh hương vị xúc pháp xứ. Sở vì sao? Vì hoặc sắc xứ, hoặc thanh hương vị xúc pháp xứ; hoặc rời sắc xứ, hoặc rời thanh hương vị xúc pháp xứ; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng sắc xứ, chẳng thanh hương vị xúc pháp xứ; chẳng rời sắc xứ, chẳng rời thanh hương vị xúc pháp xứ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng sắc xứ, chẳng thanh hương vị xúc pháp xứ; chẳng rời sắc xứ, chẳng rời thanh hương vị xúc pháp xứ. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi sắc xứ, chẳng nên cầu nơi sắc xứ, chẳng nên cầu nơi thanh hương vị xúc pháp xứ; chẳng nên cầu rời sắc xứ, chẳng nên cầu rời thanh hương vị xúc pháp xứ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhãn giới, chẳng nên cầu nơi sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời nhãn giới; chẳng nên cầu rời sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì hoặc nhãn giới, hoặc sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc rời nhãn giới, hoặc rời sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhãn giới, chẳng sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời nhãn giới, chẳng rời sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhãn giới, chẳng sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời nhãn giới, chẳng rời sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhãn giới, chẳng nên cầu nơi sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời nhãn giới, chẳng nên cầu rời sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời nhĩ giới, chẳng nên cầu rời thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì hoặc nhĩ giới, hoặc thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc rời nhĩ giới, hoặc rời thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhĩ giới, chẳng thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời nhĩ giới, chẳng rời thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhĩ giới, chẳng thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời nhĩ giới, chẳng rời thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhĩ giới, chẳng nên cầu nơi thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rơi nhĩ giới, chẳng nên cầu rời thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tỷ giới, chẳng nên cầu nơi hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời tỷ giới, chẳng nên cầu rời hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì hoặc tỷ giới, hoặc hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc rời tỷ giới, hoặc rời hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nều cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tỷ giới, chẳng hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời tỷ giới, chẳng rời hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tỷ giới, chẳng hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời tỷ giới, chẳng rời hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tỷ giới, chẳng nên cầu nơi hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời tỷ giới, chẳng nên cầu rời hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thiệt giới, chẳng nên cầu nơi vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời thiệt giới, chẳng nên cầu rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì hoặc thiệt giới, hoặc vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc rời thiệt giới, hoặc rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thiệt giới, chẳng vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc , thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời thiệt giới, chẳng rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thiệt giới, chẳng vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời thiệt giới, chẳng rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thiệt giới, chẳng nên cầu nơi vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng nên cầu rời thiệt giới, chẳng nên cầu rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thân giới, chẳng nên cầu nơi xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời thân giới, chẳng nên cầu rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì hoặc thân giới, hoặc xúc giới cho đến thân xúclàm duyên sanh ra các thọ; hoặc rời thân giới, hoặc rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc Bồ tát ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thân giới, chẳng xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời thân giới, chẳng rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thân giới, chẳng xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời thân giới, chẳng rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thân giới, chẳng nên cầu nơi xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng nên cầu rời thân giới, chẳng nên cầu rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa , chẳng nên cầu nơi ý giới, chẳng nên cầu nơi pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời ý giới, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì hoặc ý giới. hoặc pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc rời ý giới, hoặc rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng ý giới, chẳng pháp giới, ý thức giới, và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời ý giới, chẳng rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng ý giới, chẳng pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng rời ý giới, chẳng rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng cầu nơi ý giới, chẳng cầu nơi pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng nên cầu rời ý giới, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi địa giới, chẳng nên cầu nơi thủy hỏa phong không thức giới; chẳng nên cầu rời địa giới, chẳng nên cầu rời thủy hỏa phong không thức giới. Sở vì sao? Vì hoặc địa giới, hoặc thủy hỏa phong không thức giới; hoặc rời địa giới, hoặc rời thủy hỏa phong không thức giới; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chổ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng địa giới, chẳng thủy hỏa phong không thức giới; chẳng rời địa giới, chẳng rời thủy hỏa phong không thức giới. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bố tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng địa giới, chẳng thủy hỏa phong không thức giới; chẳng rời địa giới, chẳng rời thủy hỏa phong không thức giới. Vậy nên Bố tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi địa giới, chẳng nên cầu nơi thủy hỏa phong không thức giới; chẳng nên cầu rời địa giới, chẳng nên cầu rời thủy hỏa phong không thức giới.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi khổ thánh đế, chẳng nên cầu nơi tập diệt đạo thánh đế; chẳng nên cầu rời khổ thánh đế, chẳng nên cầu rời tập diệt đạo thánh đế. Sở vì sao? Vì hoặc khổ thánh đế, hoặc tập diệt đạo thánh đế; hoặc rời khổ thánh đế, hoặc rời tập diệt đạo thánh đế; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng khổ thánh đế, chẳng tập diệt đạo thánh đế; chẳng rời khổ thánh đế, chẳng rời tập diệt đạo thánh đế. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng khổ thánh đế, chẳng tập diệt đạo thánh đế; chẳng rờikhổ thánh đế, chẳng rời tập diệt đạo thánh đế. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi khổ thánh đế, chẳng nên cầu nơi tập diệt đạo thánh đế; chẳng nên cầu rời khổ thánh đế, chẳng nên cầu rời tập diệt đạo thánh đế.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi vô minh, chẳng nên cầu nơi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não; chẳng nên cầu rời vô minh, chẳng nên cầu rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não. Sở vì sao? Vì hoặc vô minh, hoặc hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não; hoặc rời vô minh, hoặc rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng vô minh, chẳng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não; chẳng rời vô minh, chẳng rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đếu là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng vô minh, chẳng hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não; chẳng rời vô minh, chẳng rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi vô minh, chẳng nên cầu nơi hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não; chẳng nên cầu rời vô minh, chẳng nên cầu rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não.
Kiều Thi Cầu! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nội không, chẳng nên cầu nơi ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô t1nh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; chẳng nên cầu rời nội không, chẳng nên cầu rời ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Sở vì sao? Vì hoặc nội không, hoặc ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không; hoặc rời nội không, hoặc rời ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nội không, chẳng ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không; chẳng rời nội không, chẳng rời ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nội không, chẳng ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng rời nội không, chẳng rời ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nội không, chẳng nên cầu nơi ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng nên cầu rời nội không, chẳng nên cầu rời ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi chơn như, chẳng nên cầu nơi pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới; chẳng nên cầu rời chơn như, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến bất tư nghì giới. Sở vì sao? Vì hoặc chơn như, hoặc pháp giới cho đến bất tư nghì giới; hoặc rời chơn như, hoặc rời pháp giới cho đến bất tư nghì giới; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng chơn như, chẳng pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới; chẳng rời chơn như, chẳng rời pháp giới cho đến bất tư nghì giới. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng chơn như, chẳng pháp giới cho đến bất tư nghì giới; chẳng rời chơn như, chẳng rời pháp giới cho đến bất tư nghì giới. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi chơn như, chẳng nên cầu nơi pháp giới cho đến bất tư nghì giới; chẳng nên cầu rời chơn như, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến bất tư nghì giới.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bố thí ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa; chẳng nên cầu rời bố thí Ba la mật đa, chẳng nên cầu rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Sở vì sao? Vì hoặc bố thí Ba la mật đa, hoặc tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa; hoặc rời bố thí Ba la mật đa, hoặc rời tịnh giới an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bố thí Ba la mật đa, chẳng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa; chẳng rời bố thí ba la mật đa, chẳng rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bố thí ba la mật đa, chẳng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa; chẳng rời bố thí Ba la mật đa, chẳng rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bố thí Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa; chẳng nên cầu rời bố thí Ba la mật đa, chẳng nên cầu rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn tĩnh lự, chẳng nên cầu nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định; chẳng nên cầu rời bốn tĩnh lự, chẳng nên cầu rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Sở vì sao? Vì hoặc bốn tĩnh lự, hoặc bốn vô lượng, bốn vô sắc định; hoặc rời bốn tĩnh lự, hoặc rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn tĩnh lự, chẳng bốn vô lượng, bốn vô sắc định; chẳng rời bốn tĩnh lự, chẳng rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn tĩnh lự, chẳng bốn vô lượng, bốn vô sắc định; chẳng rời bốn tĩnh lự, chẳng rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn tĩnh lự, chẳng nên cầu nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định; chẳng nên cầu rời bốn tĩnh lự, chẳng nên cầu rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ; Chẳng nên cầu rời tám giải thoát, chẳng nên cầu rời tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ. Sở vì sao? Vì hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ; hoặc rời tám giải thoát, hoặc rời tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tám giải thoát, chẳng tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ; chẳng rời tám giải thoát, chẳng rời tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tám giải thoát, chẳng tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ; chẳng rời tám giải thoát, chẳng rời tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tám giải thoát, chẳng nên cầu nơi tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ; chẳng nên cầu rời tám giải thoát, chẳng nên cầu rời tám thắng xứ, chín thứ đệ, mười biến xứ.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; chẳng nên cầu rời bốn niệm trụ, chẳng nên cầu rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Sở vì sao? Vì hoặc bốn niệm trụ, hoặc bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi, hoặc rời bốn niệm trụ; hoặc rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn niệm trụ, chẳng bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi; chẳng rời bốn niệm trụ, chẳng rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được , nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn niệm trụ, chẳng bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi; chẳng rời bốn niệm trụ, chẳng rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn niệm trụ, chẳng nên cầu nơi bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi; chẳng nên cầu rời bốn niệm trụ, chẳng nên cầu rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi không giải thoát môn, chẳng nên cầu nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; chẳng nên cầu rời không giải thoát môn, chẳng nên cầu rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Sở vì sao? Vì hoặc không giải thoát môn, hoặc vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc rời không giải thoát môn, hoặc rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng không giải thoát môn, chẳng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; chẳng rời không giải thoát môn, chẳng rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi tánh vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng không giải thoát môn, chẳng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; chẳng rời không giải thoát môn, chẳng rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi không giải thoát môn, chẳng nên cầu nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; chẳng nên cầu rời không giải thoát môn; chẳng nên cầu rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi năm nhãn, chẳng nên cầu nơi sáu thần thông; chẳng nên cầu rời năm nhãn, chẳng nên cầu rời sáu thần thông. Sở vì sao? Vì hoặc năm nhãn, hoặc sáu thần thông; hoặc rời năm nhãn, hoặc rời sáu thần thông; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năm nhãn, chẳng sáu thần thông; chẳng rời năm nhãn, chẳng rời sáu thần thông. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năn nhãn, chẳng sáu thần thông; chẳng rời năm nhãn, chẳng rời sáu thần thông. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi năm nhãn, chẳng nên cầu nơi sáu thần thông; chẳng nên cầu rời năm nhãn, chẳng nên cầu rời sáu thần thông.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi Phật mười lực, chẳng nên cầu nơi bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên cầu rời Phật mười lực, chảng nên cầu rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Sở vì sao? Vì hoặc Phật mười lực, hoặc bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc rời Phật mười lực, hoặc rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như tế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng, Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Phật mười lực, chẳng bốn vô úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng rời Phật mười lực, chẳng rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng Phật mười lực, chẳng bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng rời Phật mười lực, chẳng rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi Phật mười lực, chẳng nên cầu nơi bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng nên cầu rời Phật mười lực, chẳng nên cầu rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi pháp vô vong thất, chẳng nên cầu nơi tánh hằng trụ xả; chẳng nên cầu rời pháp vô vong thất, chẳng nên cầu rời tánh hằng trụ xả. Sở vì sao? Vì hoặc pháp vô vong thất, hoặc tánh hằng trụ xả; hoặc rời pháp vô vong thất, hoặc rời tánh hằng trụ xả; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng pháp vô vong thất, chẳng tánh hằng trụ xả; chẳng rời pháp vô vong thất, chẳng rời tánh hằng trụ xả. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng pháp vô vong thất, chẳng tánh hằng trụ xả; chẳng rời pháp vô vong thất, chẳng rời tánh hằng trụ xả. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi pháp vô vong thất, chẳng nên cầu nơi tánh hằng trụ xả; chẳng nên cầu rời pháp vô vong thất, chẳng nên cầu rời tánh hằng trụ xả.
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhất thiết trí, chẳng nên cầu nơi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; chẳng nên cầu rời nhất thiết trí, chẳng nên cầu rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Sở vì sao? Vì hoặc nhất thiết trí, hoặc đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; hoặc rời nhất thiết trí, hoặc rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng hất thiết trí, chẳng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; chẳng rời nhất thiết trí, chẳng rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhất thiết trí, chẳng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; chẳng rời nhất thiết trí, chẳng rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhất thiết trí, chẳng nên cầu nơi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí; chẳng nên cầu rời nhất thiết trí, chẳng nên cẩu rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
--- o0o ---