I- Địa vị quyển Tỳ Ni nhật dụng diễn nôm, trong thiền môn.
Hầu hết các Tăng Ni ở các chùa Việt Nam, nhất là miền Nam, từ 100 năm qua đều biết và học qua quyển sách trên. Sau khi xuất gia, ai cũng phải học hai đường công phu và Tỳ Ni nhật dụng yếu lược. Học thuộc Tỳ Ni là một việc, còn thực hiện bao nhiêu cái đó tùy hoàn cảnh và trình độ ý thức của từng người. Học Tỳ Ni xong, tiếp tục học luật Sa Di, Oai nghi và Cảnh Sách, gộp chung bốn cuốn ấy lại gọi là luật Trường Hàng. Trường hàng trở thành sách giáo khoa căn bản, cung cấp hiểu biết tối thiểu luật đạo để có đủ tư cách cần thiết cho việc thọ giới Sa Di, Sa Di Ni. Tiếp theo sau đó, chuẩn bị vào thọ giới tỳ kheo, vị giáo thọ khảo hạch chính thức cũng chủ yếu là những quy điều nằm trong luật trường hàng ấy. Như vậy, địa vị quyển Tỳ Ni là địa vị hàng đầu cho người xuất gia, loại sách gối đầu giường. Nói thiền môn là nói theo nghĩa rộng, chỉ hết các chùa dù tu tịnh độ đi nữa. Đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc là thiền. Nước ta từ đầu đã có nhiều đoàn truyền giáo đưa Phật đạo vào Giao Châu rất sớm, nhưng cũng giống như tình trạng tu học ở Trung Quốc buổi đầu, trước khi Bồ Đề Đạt Ma đến vào năm 520, tập tu, nghĩa là thiền định, tu tịnh độ, tu mật pháp gọi là tập tu, nước ta cũng hành trì Phật pháp theo lối ấy. Sau khi ngài Bồ Đề Đạt Ma đến, mở ra một lối tu đặc biệt, truyền thừa và phát triển thành ra THIỀN. Thiền học truyền vào nước ta, đầu tiên là Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, năm 580 và sau đó mấy trăm năm Ngài Vô Ngôn Thông truyền phái thiền thứ hai, năm 820. Vì thế, theo tập truyền ấy, về sau có nhiều giòng thiền truyền vào Việt nam. Và các chùa Việt Nam được coi là chùa thiền. Tỳ Ni vốn là xuất phát căn bản từ luật tạng, nhưng nó là một phương tiện nhiếp tâm cho lối tu thiền rất tự nhiên, vì thế Tỳ ni mang giá trị là một pháp tu từ gốc là tâm. Mọi việc Tỳ Ni dạy đều nhắm đến nhiếp tâm cả, qua đó cũng thể hiện lòng từ bi của Bồ Tát. Khía cạnh ấy thuộc vào phần nhiêu ích hữu tình giới của luật. Như vậy bộ luật trường hàng trở thành vốn liếng tối cần cho một tu sĩ
II- Nguồn gốc của quyển Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu.
Quyển Tỳ Ni lâu nay vẫn cho là luật sư Độc Thể (Hiệu Kiến Nguyệt), viết vào TK 17, đời Minh, Trung Quốc. Sự thật phải vậy chăng?
A- Về tác giả Độc Thể (1601-1697): Ngài là Tổ thứ hai của phái Thiên Hoa luật tông cuối đời Minh, người đất Sở Hùng, tỉnh Vân Nam, họ Hứa, tự là Thiệu Như, sau đổi là Kiến Nguyệt. Thuở nhỏ giỏi hội họa, chuyên nhất là vẽ tượng Quán Âm Đại Sĩ, cũng xưng hiệu là Tiểu Ngô Đạo Tử, năm 14 tuổi bố mẹ qua đời, bác nuôi dưỡng ăn học. Chợt một hôm nhận ra cảnh vô thường trong cuộc sống, Ngài bỏ nhà đi làm đạo sĩ Lão giáo, rồi sau đó đến học Kinh Hoa Nghiêm với vị lão tăng tên là Xích Nham ở Kiến Xuyên. Học đến thế chủ diệu nghiêm Ngài bổng tĩnh ngộ bèn xuất gia với Lượng Như, ở Núi Hồng Bảo. Sau đó theo Tam muội Tịch Quang đi về phía đông, sư theo Ngài thọ giới cụ túc và trở thành bậc Thượng toạ, thay thế thầy giảng kinh Phạm Võng. Đọc qua luật Tứ Phần, chỗ nào bế tắc thì hướng về Phật cầu nghĩa. Lúc sắp nhập tịch, Tịch Quang phó chúc tử y và các bộ giới bản, Sư được nối pháp Tịch Quang. Từ đó về sau Sư cứ y luật mà tổ chức Giới đàn kiết hạ an cư hết sức nghiêm túc và gây được giá trị cảm xúc lợi lạc lớn. Vì thế bây giờ người ta có cảm tưởng là Nam Tông luật sư tái thế (tức Ngài Đạo Tuyên 596 - 669).
Ở Trung Quốc từ khoảng cuối nhà Minh đầu nhà Thanh thì Phật giáo mất dần sự thống nhất do nhiều nguyên nhân, đó cũng là lẽ tự nhiên và hơn 250 năm khá thịnh đạt với sự ủng hộ của triều đình nhà Minh từ Tỳ Kheo 14,15,16, nên vào đầu TK 17 Phật pháp suy vi bắt đầu từ việc giới luật không còn chặt chẽ trong tăng hội, luật Sư Độc Thể là một chủ nhân của thời đại ấy. Vốn là người có hoài bảo phấn chấn tổ chức kỷ cương nên Sư hết mình ngăn sóng dữ, DĨ THÂN THỊ PHẠM (lấy chính đời sống mình làm bài học). Sư quét dần những hư đốn cũ, dĩ nhiên cũng không phải là một sớm một chiều mà công việc đạt kết quả mong muốn. Sư từng ba lần tu bát chú tam muội 90 ngày để làm mẫu mực khuyến khích đồ chúng, và y theo nếp sống ở Kỳ Viên thuở nọ mà xây dựng giới đàn làm mới lại tinh thần tuân thủ giới luật và được đồ chúng theo học ngày càng đông. Sư đến các chùa tổ giảng giới luật sôi nỗi, có các xuất gia và tại gia theo học ùn ùn, tạo nên khí hậu cường thịnh của giới luật mà trong thời trung cổ trở lại đây ít thấy. Sư tịch năm Khang Hy 18 (78 tuổi 1679). Sách viết, soạn có: Tỳ Ni Chỉ Trì Hội Tập 16 quyển, Tỳ Ni Tác Trì Tục Thích 15 quyển, Tuyên Giới Chánh Phạm 4 quyển, Đại Thừa Huyền Nghĩa, Sa Di Luật Nghi Yếu Lược (hai bộ Tỳ Ni vừa kể trên được nhập tạng năm Càn Long 2 (1737). Như vậy, Ngài Độc Thể viết hai bộ Tỳ Ni vừa kể, chứ không phải Tỳ Ni Nhật Dụng Yếu Lược, như ta đã biết được diễn nôm năm 1893 ở Việt Nam. Vậy quyển Tỳ Ni lưu hành bấy lâu ở Việt Nam là do đệ tử Ngài rút ra từ bộ luật Tỳ Ni của Ngài mà viết ra.
B- Về người soạn thuật quyển Tỳ Ni nhật dụng yếu lược: Ngài Thư Ngọc (1645-1721) là vị Tăng luật tông đời Thanh, người đất Võ Tiến, Tỉnh Giang Tô, họ Đường, tự là Nghi Khiết, hiệu Phật Am từ nhỏ thông nho học. Một hôm nhân nghe vị tăng tụng Phẩm hạnh Nguyện của Ngài Phôâû Hiền, mà xúc động lập chí xuất gia. Năm 22 tuổi cạo tóc với Ngài Tự Khiêm ở Gia Sơn, Kinh Khẩu. Từ đó, học hành, hầu thầy hiết sức siêng năng Về sau, thọ giới với Ngài Độc Thể Kiến Nguyệt ở chùa long xương, núi Bảo Hoa, Kim Lăng, rồi để bên thầy nghiên cứu học luật. Năm Khang Hy 22 (1683) cùng với Định Am Đức Cơ, đến giảng giới tại chùa Chiếu Khánh, Hàng Châu. Bèn dừng lại ở chùa này, chỉ huy mọi công việc luôn 38 năm. Mỗi năm hai mùa Xuân Đông mở đàn truyền giới bốn phương tăng tựu về như mây nổi, người thọ giới cụ túc có hơn vạn. Năm Khang Hy 39, chùa bị cháy, năm sau cất lại Đại Hùng Bữu Điện, giới đàn Tự Vũ. Năm thứ 52 vua ban Long Tàng, năm Khang Hy 60 có chút bệnh ngồi nói kệ di chúc xong, thị tịch 77 tuổi. Sách Ngài viết có : Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Sớ Tán 8 quyển, Tỳ Ni Nhật Dụng Hương Nhũ Ký, Sa Di Oai Nghi Yếu Lược Thuật Nghĩa, Nhị Bộ Tăng Thọ Giới Nghi Thức, Yết Ma Duy Thức, mỗi thứ hai quyển. Như vừa kể trên, ta thấy quyển Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu diễn nôm năm 1893 là tóm gọn lại bộ Tỳ ni hương nhũ còn nói đến nhiều vấn đề tu học khác. Và đặt tên như vừa nói, bỏ bớt hương nhũ kí.
C- Thiên Hoa phái là gì? Là một phái của Nam Sơn Luật Tông, đầu não là chùa Long Xương, núi Bảo Hoa, chùa cơ duy, tỉnh Giang Tô.Cao tổ phái này la øĐạo Tuyên đời Đường, Thái tổ là Như Hinh, đời Minh mà Yịnh Quang là đệ nhất tổ của Bảo Hao Sơn thời trung hưng ấy tên Thiện Hòa là do Ngài Tịch Quang cất lên ở chùa Long Xương đặ tra. Truyền thừa phái này là từ Đạo Tuyên, truyền xuống đến đời thứ 93 là Huệ Văn Như Hinh, Như Hinh truyền cho Tịch Quang Tam Muội Tịch Quang chọn Hoa Sơn làm Bản sơn và ngài trở thành đời 1 và coi ngài Như Hinh làm Thái Tổ Ngài Như Hinh lúc chiêm bái Ngũ Đài Sơn, chiêm ngưỡng Bồ tát Văn Thù mà mến mộ giới luật từ lúc ấy, và cả đời mình Ngài hết sức mở mang giới luật. Đời gọi Ngài là Trung Hưng Luật Tổ. Ngài có viết bộ kinh : Luật Giới Tướng Bồ Tát Nghi Quỹ quyển, đệ tử Ngài rất đông, trong đó,Tánh Ly, Tánh phác, hai vị nầy nối nhau truyền luật ở chùa Cổ Lâm, Nam kinh, gọi là Cổ Lâm phái mà pháp của Như Hinh mà Tịch Quang Tam muội truyền thì gọi là phái Thiên Hoa (ngàn hoa) vì Ngài Tịch Quang trùng hưng chùa Long Xương, núi Bảo Hoa thành đạo tràng luật tông và cất liên xã, nên gọi tên là Liên Hoa, và Tịch Quang trở thành tổ thứ nhất của phái này, Độc Thể là đời thứ hai. Từ đó truyền xuống Đức Cơ, Chân Nghĩa, Thường Tùng, Thật Vĩnh, Phước Tụ. Mãi đến đời gần đây người nối pháp ở khắp nơi và Bảo Hoa sơn không những nơi 4 phương đến cầu tụ tập đông đảo mà Bảo Hoa sơn còn là khuôn mẫu cho mọi giới đàn truyền giới khắp xứ. (Trích theo Phật Quang Đại Từ Điển, Đài Loan ,1988 )
D. Về Ngài Đại Viên Thiền Sư (771 -859 )
Vị tăng đời Đường, tổ Quy Ngưỡng tông, người đất Phước Châu, họ Triệu pháp danh Linh Hựu, năm 15 tuổi xuất gia với luật sư Pháp Thường (còn gọi là Pháp Hằng) chùa Kiến thiện. Thọ giới cụ túc ở chùa Long Hưng, Hàng Châu. Năm 23 tuổi đến tham học với hòa thượng Bá trượng Hoài Hải ở Giang Tây và trở thành đệ tử hàng đầu, Đốn Ngộ nối pháp của Bá Trượng. Đời Hiến Tông cuối năm Nguyên Hòa, đến núi Quy Sơn, Đàm Châu, dân chúng quanh vùng được cảm hóa ngày càng đông, tin tưởng Ngài, nên cùng nhau hợp lực cất chùa cho Ngài ở. Tiếng lành vang khắp, Lý Cảnh Nhượng bèn tâu lên vua bậc cao tăng, vua ban hiệu chùa là Đồng Khánh Tự. Sau đó, tướng quốc là Bùi Hưu đến cầu yếy chỉ, tiếng tăm thơm dậy khắp miền, tăng chúng đến học đông như mây ùn ùn kéo đến. thời Võ Tôn đời Đường, Phật pháp bị phá hoại (cũng gọi là pháp nạn Hội Xương, 842) triệt hạ chùa chiền bắt tăng ni hoàn tục, vì vua đang tin theo Lão giáo. Năm 846 Võ Tông mất. Tuyên Tông lên phục hưng Phật giáo. Trong thời gian pháp nạn (842 - 846) Sư sống lẫn trong nhân gian chợ búa khuất dạng tu sĩ. Năm 847 niên hiệu Đại Trung I, nghe lịnh vua khôi phục Phật giáo, dân chúng mới rước sư về chùa cũ nhưng sư vẫn ăn vận sơ sài, và quấn khăn lên đầu khi thuyết pháp, không cạo tóc. Sau đó tướng quốc Bùi Hưu khuyên hãy trở lại tăng thân, từ đó sư mới cạo tóc mặc áo tăng lữ, sư ở chùa cũ 40 năm, đời gọi là Quy Sơn Linh Hựu, thị tịch tháng 7 năm Đại Trung 7, 83 tuổi, 64 hạ lạp, vua ban thụy hiệu là Đại Viên thiền sư, ngoài tác phẩm khác Ngài có viết ngữ lục, Cảnh Sách gọi tên đủ là QUY SƠN ĐẠI VIÊN THIỀN SƯ CẢNH SÁCH vì Cảnh Sách này là ngữ lục, loại tản văn, có vận, chia làm 5 mục là :
1/. Những hoạn nạn do vì có sắc thân.
2/. Răn nhắc loại bỏ tệ nạn của người xuất gia.
3/. Thuyết minh chí nguyện trước mắt của người xuất gia.
4/. Chỉ ra con đường tắt để vào cửa đạo.
5/. Kiết luận khuyên nhũ dặn dò đinh ninh, tổng cộng là 360 câu văn vần, văn gọn ý sâu.
Sau đó 1 vị tăng đời Đường đã gộp chung kinh Di Giáo, Tứ Thiập Nhị Chương và bản văn Cảnh Sách nầy đặt tên là Phật tổ tam kinh, lưu truyền ở đời. Bản văn Cảnh Sách nầy ở Trung Quốc và Việt Nam, trong tăng giới có ít nhiều học đạo đều thuộc lòng. Giá trị văn chương rất tuyệt, ý tứ chặt chẻ sâu sắc. Về Ngài Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615). Ngài là 1 đạo sư nổi tiếng của Phật giáo đời Minh. Đời nầy thiền tông vẫn phát triển có nhiều thiền sư lỗi lạc, nhưng riêng có Vân Thê Châu Hoằng Tử Bách Chân Khả (1543 -1603) Hám Sơn Đức Thanh (1546-1623) Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655) là nỗi tiếng hơn cả, chủ trương thiền định kiêm tu. Đóng góp nhiều mặt cho sự phát triển, phồn thịnh của Phật giáo bây giờ. Công hạnh cao vời học vấn uyên bác sáng tác dồi dào kiến thiết rộng khắp, uy tín vững vàng. Ngài Châu Hoằng xuất gia năm 32 tuổi, người huyện Nhân Hòa, Thuộc Hàng Châu, tỉnh Triết Giang, họ Trầm, tự là Phật Huệ, hiệu là Liên Trì Đại Sư. Lúc xuất gia thọ giáo với ngài Biện Dung, thuộc tông Hoa Nghiêm, và Ngài Tiếu Nham, thiền tông. Tham cứu công án : niệm Phật là ai? Sau được tĩnh ngộ. Từ đó Ngài có cảm giác sâu sắc về luân hồi tái sanh khổ lụy, càng quyết chí nỗ lực hành trì bền bỉ, Ngài viết bốn chử SANH TỬ SỰ ĐẠI dán nơi bàn viết để không quên lãng cái khổ lớn nhứt ấy, và ngài biết rằng cái khổ lớn nhất đối với người tu là không liễu ngộ sanh tử luân hồi sự đại ấy. sau khi đi tham học 4 phương với nhiều bậc lão túc về ở núi Vân Thê, Hàng Châu. Chùa nầy vốn có từ trước nhưng hồi nầy hoang tàn, Ngài bèn tu sữa chỉnh trang lại, làm đạo tràng hoằng pháp. Trong thời gian ở đây, ngài tu pháp niệm Phật và Du Già Diệm Khẩu, có nhiều linh nghiệm, cọp beo không còn hoành hành như trước. Một năm hạn hán, dân chúng xung quanh đến thỉnh ngài cầu mưa, ngài bảo tôi chẳng có tài nghề gì, nhưng dân chúng cảm mến đức hạnh cao vời của ngài, thỉnh mãi ngài xúc động, liền cầm mõ cùng mọi người đi dọc bờ ruộng cùng niệm Phật. Đêm ấy mưa to đổ xuống dân chúng vui mừng vô hạn. Từ cả vùng thấm nhuần giáo hóa của ngài. Từ đó tên ngài vang 4 phương, tăng tục các nơi kéo đến họctu có hơn 1000 người, không mấy lúc mà nơi đó trở thành một Đại Tòng Lâm. Hành trì, dạy đạo liên tục cũng như soạn sách, công việc đó, ngài làm liên tục gần 50 năm. Năm 81 tuổi, tháng 6 ngài đi từ biệt bạn bè và đệ tử báo trước giờ ra đi, chỉ nói là tôi xắp đi nơi khác. Chiều ngày 1 tháng 7, ngài kêu đồ chúng bảo rằng : Ngày mai tôi đi. Chiều hôm sau ngài vào tư thất ngồi ngay ngắn. Mọi người đến bao quanh Ngài mở mắt bảo : Đại chúng phải niệm Phật cho chính chắn hớ nghi ngờ, đừng phá hoại quy cũ người xưa. Nói xong ngài niệm 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật, thoát hóa.
Trước đó Ngài từng khai thị cho đồ chúng rằng : Lúc tông phong ngài Diện Dung rất thạnh, ta đến cầu học, nhiều phen thỉnh cầu. Cuối cùng thấy lòng thành khẩn của ta, Ngài dạy rằng : "Ngươi nên giữ bổn phận, không bao giờ tham cầu danh lợi, không chạy theo bên ngoài, hiểu nhân qủa tự tâm, chuyên lo niệm Phật”. Ta lãnh giáo lui ra, bấy giờ có một số bạn nhìn ta cười bảo : “Không có pháp chi huyền diệu”, nhưng ta thì ta hiểu yếu chỉ của ngài Biện Dung là : thật thà chất phát mà làm, làm cho thiết cốt mới mong kết quả, mình phải làm tận nơi mới khuyên dạy người. Ta tuân giữ lời ấy mãi mãi không dám quên chổ cốt chính là hành trì thậm thâm vậy "
Đệ tử Ngài Châu Hoằng có hai vị nổi tiếng hơn hết là Quang Ấn (1566-1636) và Nguyên Hiển (1578-1657) Ngài đuợc tôn lên làm tổ thứ 8 trong Liên Tông. Sách viết, soạn có nhiều như : Lăng Nghiêm Kinh Mô Tượng Kí, 1 quyển. A di Đà Sớ Sao (4 quyển) A Di Đà Kinh Sớ Sao sự Nghĩa (1 quyển ) Tịnh Độ Biện Nghi (1 quyển) Vãng Sanh Tập (3 quyển) Thiền Quán Sách Tấn (1 quyển) Truy Môn Sùng Hành Lục (1 quyển) Trúc Song Tuỳ Bút (3 quyển). Đặc biệt ngài tận lực phục hưng môn giới luật, lấy giới làm nền tảng cho niệm Phật, tu thiền. Ở Việt Nam lâu đời vẫn học bộ Sa Di luật giải của ngài có hai phần: Oai nghi và luật Sadi, coi là nồng cốt cho hàng tăng ni xuất gia học đạo bước đầu, cùng với luật tỳ ni yếu và cảnh sách văn thành bộ sách giáo khoa căn bản.
III- Về sử diễn chử nôm của Tỳ ni, Sa Di Oai Nghi, Cảnh Sách gọi là thiền môn Trường Hàng luật, năm 1893 tại Việt Nam.
Theo bước đường nam tiến của TK 17, Phật giáo cũng có mặt tại đất nước Việt Nam. Ban đầu là vùng đất Đồng Nai, lần hồi xuống vùng Gia Định. Một trong những vùng xưa nhất của vùng này, là chùa Từ Ân, Khải Tường , lần hồi mới có cơ duyên cất chùa to. Chùa to nổi tiếng đầu tiên là chùa Giác Lâm, cất năm 1744 do cư sĩ người Minh Hương là Lý Thoại Long quyên tiền cất lên. Sau đó mới cất chùa Giác Viên, hai ngôi chùa này được truyền thừa tiếp nối bởi những vị cao tăng tài giỏi, nó trở thành trung tâm đầu não về uy tín tu học cho cả Nam kì lục tỉnh hồi trước hồi Tây xâm và cho đến đầu TK 20. Từ 1900 trở đi thì chùa nhất là Giác Viên vẫn còn là chùa có nhiều thanh thế, nhất là về ứng phó đạo tràng, hai chùa nầy phát triển song song và truyền thừa như anh em liên hệ. Về sau chùa Giác Viên nổi hơn vì sự phát triển nghề. Bên cạnh đó, sự nghiệp mở mạnh chất văn hóa, trí thức vẫn được chăm sóc, là nơi trung tâm tu học, hành đạo có bề thế hơn cả. Trước tình hình học vấn căn bản cho tăng ni khắp miền có biến chuyển ít nhiều theo bề thế, hòa thượng Hoằng Ân đã diễn nôm 4 bộ luật Trường Hàng: Tỳ Ni, Sa DI, Oai Nghi, Cảnh Sách năm 1893.
A/ Về hòa thượng Minh Khiêm, Hoằng Ân, hiệu Diệu Nghĩa (1850 -1914)
Ngài xuất gia từ thủa nhỏ, đệ tử của Hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh (1788-1775). Ngài Tiên Giác Hải Tịnh là một danh Tăng uyên bác bây giờ, từng làm trụ trì chùa Thiên Mụ, Huế, được phong chức Tăng cang dưới thời Minh Mạng. Ngài Hoằng Ân theo thầy học đạo , có trí thông minh, trở thành lổi lạc sớm. Năm 20 tuổi Ngài được cử làm trụ trì chùa Giác Viên. (ngài Tiên Giác Hải Tịnh trụ trì chùa Giác Lâm, sau thời gian trụ trì Thiên Mụ, Long Quang, Giác Hoàng)
Năm 1871 Ngài Hoàng Ân được cử làm giáo thọ A Xà Lê(26 tuổi) ở đại giới đàn chùa Tây An, Châu Đốc, và những năm kế tiếp ngài làm hòa thượng Đàng đầu các giới Đàn ở Giác Viên, Giác Lâm, Ngài được liệt vào hàng tăng sĩ tài cao, cả về đạo phong, học vấn. Ngài từng đi đế các chùa khắp Nam kỳ lục tỉnh lúc ấy, hoằng pháp độ sanh, mổi nơi trụ lại thời gian rồi qua nơi khác.
Ngài đem 4 bộ luật, diễn ra chữ Nôm để làm tư liệu cho tăng ni, lối diễn này là sát nguyên văn, chữ đâu nghĩa đó, gọn ghẽ, dễ thuộc. Từ khởi thỉ Phật giáo Việt Nam tiếp nhận kinh điển từ Trung Quốc đưa sang, bằng Hán văn, nó trở thành tự nhiên, vì triều đình Việt Nam vẫn xữ dụng Hán văn trong công văn hành chánh, thi cử, soạn sách, làm thơ văn. Chữ Nôm được sử dụng từ đời Trần nó có dặc tính ghi chép thẳng tên họ địa danh rặc của người Việt. Nó là một sáng tạo độc đáo của tổ tiên ta đẻ nói lên bản sắc tự tồn của dân tộc. Các vị đã lấy âm, ý, nghiã của chữ Hán, và dựa vào bốn vùng phát âm của miệng lưỡi, răng, cuống họng mà chế tạo ra chữ Nôm và cách đọc chữ Nôm. Thiền môn cũng sử dụng chữ ấy ghi chép thêm hoặc sáng tác những bộ truyền văn vấn đề phổ hóa đạo đức, giáo lý. Cho đến hồi Tây xâm, đất Nam kì đã xài chữ quốc ngữ (mẫu tự la tinh) với gia định báo, tờ báo đầu tiên của Việt Nam, ở Nam kì, năm 1867 ở chốn thiền môn chữ Nôm vẫn còn được dùng có tính cách phổ biến.
Khoảng 1890 thì một số truyện viết, in, phát hành bằng chữ La tinh thịnh, như truyện: ''thầy la-la-rô phiền". Thủa ấy, hiếm có nhà sư đọc thông chữ quốc ngữ. Mãi đến khi hòa thượng Lê Khánh Hòa xuất bản tạp chí Pháp âm năm 1929 thì mới coi là tạp chí Phật học. Đầu tiên in bằng chữ quốc ngữ và sau đó là Phật hóa tân thanh niên của Ngài Thiện Chiếu và một số kinh tụng bằng chữ quốc ngữ mới được in bằng chữ quốc ngữ do nhà xuất bản Thạnh Thị Mậu (sau đề làThạnh Mậu). Nhà xuất bản này lập từ 1927, về sau in nhiều kinh sách Phật, và hội Nam kì nghiên cứu Phật học và các hội Phật học ba miền cũng in nhiều kinh sách tạp chí của Việt Ngữ.
B. Về thiền sư Huệ Lưu
Về thiền sư Huệ Lưu, người sao chép cho khắc bản Tỳ Ni nhật dụng yếu lược bằng chữ Nôm, năm 1894. Quyển Tỳ Ni diễn Nôm có ghi : ''Giác Viên lan nhã thiền hòa, Hoàng Aân tĩnh nghiã, Hoa Nghiêm thiền viện, tỳ kheo Huệ Lưu sao luật : "nghĩa là A lan nhã Giác Viên Hoà thượng thiền sư Hoằng Ân giải nghĩa gọn, thầy Tỳ kheo Huệ Lưu, Hoa Nghiêm Thiền viện sao chép. Trong lời tựa, Ngài Huệ Lưu có nói Hoà thượng Hoàng Ân giải nghĩa chữ Nôm năm Quý Hợi tức 1893) và Ngài làm tựa năm Giáp Ngọ (tức năm 1894) vào tháng 6, ngày cát nhựt. Ngài Huệ Lưu người ở Nhật Tảo, Long An, là đệ tử Ngài Hoằng Ân, Ngài Huệ Lưu sanh khoảng 1860 và tịch vào 1898. Ngài là một đệ tử giỏi của hoà thượng Hoằng Ân, giới hạnh tinh nghiêm sự tu tập của ngài rất tinh tấn, đắc đạo sớm. Khi Ngài tịch thì nơi chùa Huê Nghiêm (Thủ đức) ấy đêm đó có hào quang sáng rực chói lên trời khiến thầy dòng quản lí Tiểu chủng viện Thủ Đức bấy giờ là cha cố người Pháp thấy và lấy làm lạ, cha cố báo về cho quan chánh biện (chủ tỉnh) Gia Định sự việc qua đời lạ lùng của Ngài Huệ Lưu, và quan chánh Tham Điện đã đến tận nơi cúng đám ngài Huệ Lưu, khâm phục một nhà sư chứng đạo của Phật giáo hiếm có. Ngài Huệ Lưu ngoài việc sao chép còn khắc bản quyển trường hàng luật còn để lại nhiều bài sám rất hay.
Từ năm 1894 xuất bản phát hành quyển Tỳ ni yếu lược được các chùa ở Nam kì tiếp đón nồng hậu coi như có một ông thầy dạy đạo mỗi chùa lợi ích và ảnh hưởng của nó rất lớn. Cho đến nay dù có nhiều thay đổi, nhưng Trường Hàng Luật vẫn còn được tiếp tục dạy ở các trường Phật học. Xưa kia nó là sách giáo khoa căn bản cho cuộc khảo hạch thọ giới ở các trường Hương. Bản in của chữ quốc ngữ ra đời năn 1947, do Thạch Mậu in, không được người phiên âm. Nhìn lại thấy công lao chư tổ quá khứ cũng đáng khâm phục, ngoài ra ở chùa Giác Hải, (cũng là chi nhánh của Giác Viên, cũng có nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm của hoà thượng Từ Phong (1864 -1938) bản gỗ khắc Tỳ Ni hiện còn tàng trữ ở chùa Giác Viên (quận 11 Chợ Lớn) và nhiều bản khắc gỗ khác, như Hứa sử truyện.
chuaviet.org tổng hợp