Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998
--- o0o ---
Tập 2
QUYỂN THỨ 37
Hội Thứ Nhất
Phẩm VÔ TRỤ
Thứ 9 - 2
Bạch Thế Tôn! Tôi đối năm nhãn, sáu thần thông bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là năm nhãn, đây là sáu thần thông? Bạch Thế Tôn! Danh năm nhãn thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa năm nhãn thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh năm nhãn thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối ngã, hữu tình cho đến tri giả, kiến giả bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là ngã, hữu tình, cho đến đây là tri giả, kiến giả? Bạch Thế Tôn! Danh ngã thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa ngã thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh ngã thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối Phật tùy niệm, Pháp tùy niệm, Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả tùy niệm, thiên tùy niệm, tức tùy niệm, yểm tùy niệm, tử tùy niệm, thân tùy niệm bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là Phật tùy niệm, cho đến đây là thân tùy niệm? Bạch Thế Tôn! Danh Phật tùy niệm thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa Phật tùy niệm thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh Phật tùy niệm thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui, tưởng nhàm ăn, tưởng đoạn, tưởng ly, tưởng diệt bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là tưởng vô thường, cho đến đây là tưởng diệt? Bạch Thế Tôn! Danh tưởng vô thường thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa tưởng vô thường thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh tưởng vô thường thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối không, vô tướng, vô nguyện bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là không, cho đến đây là vô nguyện? Bạch Thế Tôn! Danh không thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa không thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh không thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối bố thí tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là bố thí Ba la mật đa, cho đến đây là bát nhã Ba la mật đa? Bạch Thế Tôn! Danh bố thí Ba la mật đa thảy đều vô sở hữu, vậy nên danh bố thí Ba la mật đa thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là bốn niệm trụ, cho đến đây là tám thánh đạo chi? Bạch Thế Tôn! Danh bốn niệm trụ thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh bốn niệm trụ thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tối đối Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết tri, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là nhất thiết tướng trí? Bạch Thế Tôn! Danh Phật mười lực thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa Phật mười lực thảy, vì đã vô sở hữ, vậy nên danh Phật mười lực thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối như huyễn, như hình tượng, như tiếng vang, như bóng sáng, như không hoa, như ánh nắng, như thành quách tầm hương, như việc biến hóa, năm thủ uẩn thảy bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là như huyễn thảy, năm thủ uẩn thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa như huyễn thảy, năm thủ uẩn thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh như huyễn thảy, năm thủ uẩn thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối tịch tĩnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, dứt các hý luận, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, bình đẳng tánh, ly sanh tánh bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là tịch tĩnh, cho đến đây là ly sanh tánh? Bạch Thế Tôn! Danh tịch tĩnh thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa tịch tĩnh thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh tịch tĩnh thảy đếu vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối hoặc thường hoặc vô thường, hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc vô tướng hoặc hữu tướng, hoặc vô nguyện hoặc hữu nguyện, hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh, hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly, hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, hoặc sanh hoặc diệt, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc hữu lậu hoặc vộ lậu, hoặc thiện hoặc phi thiện, hoặc hữu tội hoặc vô tội, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc pháp thuộc sanh tử hoặc pháp thuộc Niết bàn bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là thường, cho đến đây là pháp thuộc Niết bàn? Bạch Thế Tôn! Danh thường thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa thường thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh thường thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tối đối hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại, hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc vô ký, hoặc buộc cõi Dục hoặc buộc cõi Sắc hoặc buộc cõi Vô Sắc, hoặc học hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học, hoặc thấy đạo dứt được; hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là quá khứ cho đến đây là pháp ở giữa hai? Bạch Thế Tôn! Danh quá khứ thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa quá khứ thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh quá khứ thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối thế giới các Phật mười phương hằng hà sa thảy, tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và các Bồ tát, Thanh văn tăng thảy bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là thế giới mười phương, cho đến đây là Thanh văn tăng thảy? Bạch Thế Tôn! Danh thế giới mười phương thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa thế giới mười phương thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh thế giới mười phương thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối các pháp đã nói như trên, bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là Bồ tát Ma ha tát, đây là Bát nhã Ba la mật đa? Bạch Thế Tôn! Tôi đối Bồ tát Ma ha tát và Bát nhã Ba la mật đa đã bất đắc bất kiến, làm sao khiến tôi đem pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát! Vậy nên nếu đem pháp đây dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát, quyết sẽ có hối!
Bạch Thế Tôn! Các pháp nhân duyên hòa hiệp thi thiết giả danh Bồ tát Ma ha tát và Bát nhã Ba la mật đa. Hai giả danh đây với nơi năm uẩn bất khả thuyết, với mười hai chỗ, mười tám giới, sáu giới, bốn thánh đế, mười hai nhân duyên bất khả thuyết; với tham, sân si, tất cả triền, kiết, tùy miên, kiến thủ, bất thiện căn thảy bất khả thuyết; với năm nhãn, sáu thần thông bất khả thuyết; với ngã, hữu tình, cho đến tri giả, kiến giả bất khả thuyết; với mười tùy niệm, mười tưởng bất khả thuyết; với không, vô tướng, vô nguyện, sáu Ba la mật đa bất khả thuyết; với bốn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi bất khả thuyết; với Phật mười lực, cho đến nhất thiết tướng trí bất khả thuyết; với như huyễn, cho đến như việc biến hóa, năm thủ uẩn thảy bất khả thuyết; với tịch tĩnh, viễn ly, vô sanh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, dứt các hý luận, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế, bình đẳng tánh bất khả thuyết; với thường vô thường, cho đến pháp thuộc sanh tử thuộc Niết bàn bất khả thuyết; với quá khứ, vị lai, hiện tại, cho đến ở trong, ở ngoài, pháp ở giữa hai bất khả thuyết; với thế giới mười phương hằng ha sa thảy, hoặc Phật, hoặc Bồ tát, hoặc Thanh văn tăng thảy bất khả thuyết. Vì sao thế? Vì các pháp đã nói như trên nhóm, tan đều bất khả đắc, bất khả kiến vậy!
Bạch Thế Tôn! Như trên đã nói danh năm uẩn không chỗ nói được, như vậy danh Bồ tát Ma ha tát và Bát nhã Ba la mật đa cũng không chỗ nói được. Như danh giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến không chỗ nói được; như vậy danh Bồ tát Ma ha tát và Bát nhã Ba la mật đa cũng không chỗ nói được. Như danh Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác, Như Lai và các pháp kia không chỗ nói được; như vậy danh Bồ tát Ma ha tát và Bát nhã Ba la mật đa cũng không chỗ nói được. Bạch Thế Tôn! Như tất cả hoặc hữu danh hoặc vô danh đều không chỗ nói được, như vậy danh Bồ tát Ma ha tát và Bát nhã Ba la mật đa cũng không chỗ nói được. Sở vì sao? Là các danh như vậy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là các danh nghĩa đây, vì đã vô sở hữu, vậy nên cách danh đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Bạch Thế Tôn! Vì tôi y nghĩa đây, vậy nên đối các pháp bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây danh Bồ tát Ma ha tát, đây danh Bát nhã Ba la mật đa? Bạch Thế Tôn! Tôi đối hai đây hoặc nghĩa hoặc danh đã bất đắc bất kiến, làm sao khiến tôi đem pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát? Vậy nên, nếu đem pháp đây dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát, quyết sẽ có hối! Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi nghe đem tướng trạng như thế thuyết Bát nhã Ba la mật đa, tâm chẳng chìm đắm cũng chẳng ưu hối; tâm kia bất kinh bất khủng bất bố, phải biết Bồ tát Ma ha tát này, quyết định đã được an trụ bực bất thối, đem phương tiện vô sở trụ mà an trụ!
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Sắc, sắc tánh không, thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức tánh không. Bạch Thế Tôn! Sắc đây chẳng phải sắc không, sắc không đây chẳng phải sắc. Vì sắc chẳng rời không, không chẳng rời sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ sắc, chẳng nên trụ thọ tưởng hành thức.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ nhãn xứ, chẳng nên trụ nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ, nhãn xứ tánh không; cho đến ý xứ, ý xứ tánh không. Bạch Thế Tôn! Nhãn xứ đây chẳng phải nhãn xứ không, nhãn xứ không đây chẳng phải nhãn xứ. Vì nhãn xứ chẳng rời không, không chẳng rời nhãn xứ; nhãn xứ tức là không, không tức là nhãn xứ. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ nhãn xứ, cho đến chẳng nên trụ ý xứ.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ sắc xứ, chẳng nên trụ thanh hương vị xúc pháp xứ. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Sắc xứ, sắc xứ tánh không; cho đến pháp xứ; pháp xứ tánh không. Bạch Thế Tôn! Sắc xứ đây chẳng phải sắc xứ không, sắc xứ không đây chẳng phải sắc xứ. Vì sắc xứ chẳng rời không, không chẳng rời sắc xứ; sắc xứ tức là không, không tức là sắc xứ. Thanh hương vị xúc pháp xứ cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ sắc xứ, cho đến chẳng nên trụ pháp xứ.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Nhãn giới, nhãn giới tánh không, cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không. Bạch Thế Tôn! Nhãn giới đây chẳng phải nhãn giới không, nhãn giới đây chẳng phải nhãn giới. Vì nhãn giới chẳng rời không, không chẳng rời nhãn giới; nhãn giới tức là không, không tức là nhãn giới. Sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ nhãn giới, cho đến chẳng nên trụ nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ nhĩ giới, chẳng nên trụ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanhr a các thọ. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới, nhĩ giới tánh không, cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không. Bạch Thế Tôn! Nhĩ giới đây chẳng phải nhĩ giới không, nhĩ giới không đây chẳng phải nhĩ giới. Vì nhĩ giới chẳng rời không, không chẳng rời nhĩ giới; nhĩ giới tức là không, không tức là nhĩ giới. Thanh giới, cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ nhĩ giới, cho đến chẳng nên trụ nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Tỷ giới, tỷ giới tánh không, cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không. Bạch Thế Tôn! Tỷ giới đây chẳng phải tỷ giới không, tỷ giới không đây chẳng phải tỷ giới. Vì tỷ giới chẳng rời không, không chẳng rời tỷ giới; tỷ giới tức là không, không tức là tỷ giới. Hương giới, cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ tỷ giới, cho đến chẳng nên trụ tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Thiệt giới, thiệt giới tánh không, cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không. Bạch Thế Tôn! Thiệt giới đây chẳng phải thiệt giới không, thiệt giới không đây chẳng phải thiệt giới không, thiệt giới không đây chẳng phải thiệt giới. Vì thiệt giới chẳng rời không, không chẳng rời thiệt giới; thiệt giới tức là không, không tức là thiệt giới. Vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ thiệt giới, cho đến chẳng nên trụ thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Thân giới, thân giới tánh không, cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không. Bạch Thế Tôn! Thân giới đây chẳng phải thân giới không, thân giới không đây chẳng phải thân giới. Vì thân giới chẳng rời không, không chẳng rời thân giới; thân giới tức là không, không tức là thân giới. Xúc giới, cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các tọ cũng lại như vậy. Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ thân giới, cho đến chẳng nên trụ thân xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ ý giới, pháp giới, ý thức iới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Ý giới, ý giới tánh không, cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không. Bạch Thế Tôn! Ý giới đây chẳng phải ý giới không, ý giới không đây chẳng phải ý giới. Vì ý giới chẳng rời không, không chẳng rời ý giới; ý giới tức là không, không tức là ý giới. Pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ ý giới, cho đến chẳng nên trụ ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ địa giới, chẳng nên trụ thủy hỏa phong không thức giới. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Ðịa giới, địa giới tánh không; thủy hỏa phong không thức giới, thủy hỏa phong không thức giới tánh không. Bạch Thế Tôn! Ðịa giới đây chẳng phải địa giới không, địa giới không đây chẳng phải địa giới. Vì địa giới chẳng rời không, không chẳng rời địa giới; địa giới tức là không, không tức là địa giới. Thủy hỏa phong không thức giới cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ địa giới, chẳng nên trụ thủy hỏa phong không thức giới.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ khổ thánh đế, chẳng nên trụ tập diệt đạo thánh đế. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Khổ thánh đế, khổ thánh đế tánh không; tập diệt đạo thánh đế, tập diệt đạo thánh đế tánh không. Bạch Thế Tôn! Khổ thánh đế đây chẳng phải khổ thánh đế không, khổ thánh đế không đây chẳng phải khổ thánh đế. Vì khổ thánh đế chẳng rời không, không chẳng rời khổ thánh đế; khổ thánh đế tức là không, không tức là khổ thánh đế. Tập diệt đạo thánh đế cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ khổ thánh đế, chẳng nên trụ tập diệt đạo thánh đế.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ vô minh; chẳng nên trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Vô minh, vô minh tánh không; cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não, lão tử sầu thán khổ ưu não tánh không. Bạch Thế Tôn! Vô minh đây chẳng phải vô minh không; vô minh không đây chẳng phải vô minh. Vì vô minh chẳng rời không, không chẳng rời vô minh; vô minh tức là không, không tức là vô minh. Hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ vô minh, cho đến chẳng nên trụ lão tử sầu thán khổ ưu não.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ bốn tĩnh lự; chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Bốn tĩnh lự, bốn tĩnh lự tánh không; bốn vô lượng, bốn vô sắc định, bốn vô lượng, bốn vô sắc định tánh không. Bạch Thế Tôn! Bốn tĩnh lự đây chẳng phải bốn tĩnh lự không, bốn tĩnh lự không đây chẳng phải bốn tĩnh lự. Vì bốn tĩnh lự chẳng rời không, không chẳng rời bốn tĩnh lự; bốn tĩnh lự tức là không, không tức là bốn tĩnh lự. Bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã ba la mật đa, các Bồ tát ma ha tát chẳng nên trụ bốn tĩnh lự, chẳng nên trụ bốn vô lượng, bốn vô sắc định.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ năm nhãn, chẳng nên trụ sáu thần thông. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Năm nhãn, năm nhãn tánh không; sáu thần thông, sáu thần thông tánh không. Bạch Thế Tôn! Năm nhãn đây chẳng phải năm nhãn không; năm nhãn không đây chẳng phải năm nhãn. Vì năm nhãn chẳng rời không, không chẳng rời năm nhãn; năm nhãn tức là không, không tức là năm nhã. Sáu thần thông cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ năm nhãn, chẳng nên trụ sáu thần thông.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ bố thí Ba la mật đa; chẳng nên trụ tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba la mật, bố thí Ba la mật đa tánh không; cho đến bát nhã Ba la mật đa, bát nhã Ba la mật đa tánh không. Bạch Thế Tôn! Bố thí Ba la mật đa đây chẳng phải bố thí Ba la mật đa không, bố thí Ba la mật đa không đây chẳng phải bố thí Ba la mật đa. Vì bố thí Ba la mật đa chẳng rời không, không chẳng rời bố thí Ba la mật đa; bố thí Ba la mật đa tức là không, không tức là bố thí Ba la mật đa. Tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ bố thí Ba la mật đa, cho đến chẳng nên trụ bát nhã Ba la mật đa.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ bốn niệm trụ; chẳng nên trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ, bốn niệm trụ tánh không, cho đến tám thánh đạo chi, tám thánh đạo chi tánh không. Bạch Thế Tôn! Bốn niệm trụ đây chẳng phải bốn niệm trụ không, bốn niệm trụ không đây chẳng phải bốn niệm trụ. Vì bốn niệm trụ chẳng rời không, không chẳng rời bốn niệm trụ; bốn niệm trụ tức là không, không tức là bốn niệm trụ. Bốn chánh đoạn, cho đến tám thánh đạo chi cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ bốn niệm trụ, cho đến chẳng nên trụ tám thánh đạo chi!
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ Phật mười lực; chẳng nên trụ bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Phật mười lực, Phật mười lực tánh không; cho đến nhất thiết tướng trí, nhất thiết tướng trí tánh không. Bạch Thế Tôn! Phật mười lực đây chẳng phải Phật mười lực không; Phật mười lực không đây chẳng phải Phật mười lực. Vì Phật mười lực chẳng rời không, không chẳng rời Phật mười lực; Phật mười lực tức là không, không tức là Phật mười lực. Bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ Phật mười lực, cho đến chẳng nên trụ nhất thiết tướng trí.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ các chữ, chẳng nên trụ các chữ dẫn ra, hoặc dẫn ra một lời, hoặc dẫn ra hai lời, hoặc dẫn ra nhiều lời. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Các chữ, các chữ tánh không; các chữ dẫn ra, các chữ dẫn ra tánh không; các chữ dẫn ra, các chữ dẫn ra tánh không. Bạch Thế Tôn! Các chữ đây chẳng phải các chữ không, các chữ không đây chẳng phải các chữ. Vì các chữ chẳng rời không, không chẳng rời các chữ; các chữ tức là không, không tức là các chữ. Các chữ dẫn ra cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ các chữ, chẳng nên trụ các chữ dẫn ra.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ các pháp hoặc thường hoặc vô thường; chẳng nên trụ các pháp hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh, hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Các pháp thường vô thường, các pháp thường vô thường tánh không, cho đến các pháp viễn ly bất viễn ly, các pháp viễn ly bất viễn ly tánh không. Bạch Thế Tôn! Các pháp thường vô thường đây chẳng phải các pháp thường vô thường không, các pháp thường vô thường không đây chẳng phải các pháp thường vô thường. Vì các pháp thường vô thường chẳng rời không, không chẳng rời các pháp thường vô thường, vì các pháp thường vô thường tức là không, không tức là các pháp thường vô thường. Các pháp lạc khổ cho đến các pháp viễn ly bất viễn ly cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ các pháp thường vô thường, cho đến chẳng nên trụ các pháp viễn ly bất viễn ly.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ chơn như; chẳng nên trụ pháp giới, pháp tánh, thật tế, bình đẳnh tánh, ly sanh tánh. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Chơn như, chơn như tánh không; cho đến ly sanh tánh, ly sanh tánh tánh không. Bạch Thế Tôn! Chơn như đây chẳng phải chơn như không, chơn như không đây chẳng phải chơn như. Vì chơn như chẳng rời không, không chẳng rời chơn như; chơn như tức là không, không tức là chơn như. Pháp giới cho đến ly sanh tánh cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ chơn như, cho đến chẳng nên trụ ly sanh tánh.
Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ tất cả đà la ni môn, chẳng nên trụ tất cả tam ma địa môn. Vì sao thế? Bạch Thế Tôn! Tất cả đà la ni môn, tất cả đa la ni môn tánh không; tất cả tam ma địa môn, tất cả tam ma địa môn tánh không. Bạch Thế Tôn! Tất cả đà la ni môn đây, chẳng phải tất cả đà la ni môn không; tất cả đà la ni môn không đây chẳng phải tất cả đà la ni môn. Vì tất cả đà la ni môn chẳng rời không, không chẳng rời tất cả đà la ni môn; tất cả đà la ni môn tức là không, không tức là tất cả đà la ni môn. Tất cả tam ma địa môn cũng lại như vậy. Vậy nên, Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên trụ tất cả đà la ni môn, chẳng nên trụ tất cả tam ma địa môn.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ sắc, trụ thọ tưởng hành thức. Do vì trụ này nên đối sắc tác lên gia hạnh, đối thọ tưởng hành thức tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ nhãn xứ, trụ nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Do vì trụ này này nên đối nhãn xứ tác lên gia hạnh, cho đến đối ý xứ tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ sắc xứ, trụ thanh hương vị xúc pháp xứ. Do vì trụ này nên đối sắc xứ tác lên gia hạnh, cho đến đối pháp xứ tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ nhãn giới, trụ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Do vì trụ này nên đối nhãn giới tác lên gia hạnh, cho đến đối nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ nhĩ giới, trụ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Do vì trụ này nên đối nhĩ giới tác lên gia hạnh, cho đến đối nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ tỷ giới, trụ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Do vì trụ này nên đối tỷ giới tác lên gia hạnh, cho đến đối tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ thiệt giới, trụ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Do vì trụ này nên đối thiệt giới tác lên gia hạnh, cho đến đối thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ thân giới, trụ xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Do vì trụ này nên đối thân giới tác lên gia hạnh, cho đến đối thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ ý giới, trụ pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Do vì trụ này nên đối ý giới tác lên gia hạnh, cho đến đối ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ địa giới, trụ thủy hỏa phong không thức giới. Do vì trụ này nên đối địa giới tác lên gia hạnh, cho đến đối thức giới tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ khổ thánh đế, trụ tập diệt đạo thánh đế. Do vì trụ này nên đối khổ thánh đế tác lên gia hạnh, cho đến đối tập diệt đạo thánh đế tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ vô minh, trụ hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thánh khổ ưu não. Do vì trụ này nên đối vô minh tác lên gia hạnh, cho đến đối lão tử sầu thán khổ ưu não tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ bốn tĩnh lự, trụ bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Do vì trụ này nên đối bốn tĩnh lự tác lên gia hạnh; đối bốn vô lượng, bốn vô sắc định tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ năm nhãn, trụ sáu thần thông. Do vì trụ này nên đối năm nhãn tác lên gia hạnh; đối sáu thần thông tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ bố thí Ba la mật đa; trụ tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Do vì trụ này nên đối bố thí Ba la mật đa tác lên gia hạnh, cho đến đối bát nhã Ba la mật đa tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ bốn niệm trụ; trụ bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Do vì trụ này nên đối bốn niệm trụ tác lên gia hạnh, cho đến đối tám thánh đạo chi tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ Phật mười lực; trụ bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Do vì trụ này nên đối Phật mười lực tác lên gia hạnh, cho đến đối nhất thiết tướng trí tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ các chữ, trụ các chữ dẫn ra, hoặc dẫn ra một lời, hoặc dẫn ra hai lời, hoặc dẫn ra nhiều lời. Do vì trụ này nên đối các chữ tác lên gia hạnh; đối các chữ dẫn ra tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ các pháp hoặc thường hoặc vô thường, trụ các pháp hoặc lạc hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh, hoặc viễn ly hoặc bất viễn ly. Do vì trụ này nên đối các pháp thường vô thường tác lên gia hạnh, cho đến đối các pháp viễn ly bất viễn ly tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, mà không có phương tiện khéo léo, là bị chấp ngã và ngã sở ràng rịt quấy rối, nên tâm bèn trụ tất cả đà la ni môn, trụ tất cả tam ma địa môn. Do vì trụ này nên đối tất cả đà la ni môn tác lên gia hạnh, cho đến đối tất cả tam ma địa môn tác lên gia hạnh. Do vì gia hạnh nên chẳng năng nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năng viên mãn Bát nhã Ba la mật đa và chẳng năng thành xong nhất thiết tướng trí được!
Bạch Thế Tôn! Sắc chẳng nên nhiếp thọ; thọ tưởng hành thức chẳng nên nhiếp thọ. Sắc đã chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải sắc; thọ tưởng hành thức đã chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải thọ tưởng hành thức. Sở vì sao? Vì bản tánh không vậy. Cho đến tất cả đà la ni môn chẳng nên nhiếp thọ, tất cả tam ma địa môn chẳng nên nhiếp thọ, tất cả tam ma địa môn chẳng nên nhiếp thọ. Ðà la ni môn đã chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải đà la ni môn; tam ma địa môn đã chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải tam ma địa môn. Sở vì sao? Vì bản tánh không vậy. Kìa chỗ nhiếp thọ tu hành viên mãn là Bát nhã Ba la mật đa, cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như vậy Bát nhã Ba la mật đa đã chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải Bát nhã Ba la mật đa. Sở vì sao? Vì bản tánh không vậy. Như vậy, khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, Bồ tát Ma ha tát nên đem bản tánh không mà quán tất cả pháp. Khi tác lên quán này, đối tất cả pháp tâm không có chỗ hành xứ. Ðấy gọi là Bồ tát Ma ha tát không chỗ nhiếp thọ Tam ma địa. Tam ma địa này mầu nhiệm thù thắng rộng lớn vô lượng, năng nhóm vô biên vô ngại tác dụng, chẳng cộng tất cả Thanh văn và Ðộc giác. Kìa chỗ thành xong là nhất thiết tướng trí, cũng chẳng nên nhiếp thọ. Như vậy, nhất thiết tướng trí đã chẳng nên nhiếp thọ, bèn chẳng phải nhất thiết trí. Sở vì sao? Vì nội không vậy, ngoại không vậy, nội ngoại không vậy, không không vậy, đại không vậy, thắng nghĩa không vậy, hữu vi không vậy, vô vi không vậy, tất cảnh không vậy, vô tế không vậy, tán không vậy, vô biến dị không vậy, bản tánh không vậy, tự tướng không vậy, cộng tướng không vậy, nhất thiết pháp không vậy, tự tánh không vậy, vô tánh tự tánh không vậy. Vì sao thế?
Bạch Thế Tôn! Nhất thiết tướng trí này chẳng phải lấy tướng mà tu đắc. Sở vì sao? Vì các kẻ lấy tướng đều là pheièn não! Tướng là những gì? Chỗ gọi tướng sắc, tướng thọ tưởng hành thức; cho đến tướng tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn. Ðối với các tướng này mà kẻ nào đắm lấy, gọi là phiền não. Nếu kẻ nào lấy tướng mà tu đắc nhất thiết tướng trí, thời Thắng Quân Phạm Chí đối Nhất thiết trí trí chẳng nên tín giải! Những gì gọi là tướng tín giải của kia? Nghĩa là đối với Bát nhã Ba la mật đa thâm sanh tịnh tín. Do nhờ sức thắng giải, mới suy nghĩ quan sát Nhất thiết trí trí. Chẳng đem tướng phương tiện, cũng chẳng đem phi tướng phương tiện, vì tướng cũng phi tướng đều chẳng khá lấy vậy. Thắng Quân Phạm Chí này, tuy nhờ sức tín giải mà qui đầu về Phật pháp, gọi là kẻ tùy tín hành, mà năng đem bản tánh không ngộ vào Nhất thiết trí trí. Ðã ngộ vào rồi, chẳng lấy tướng sắc, chẳng lấy tướng thọ tưởng hành thức; cho đến chẳng lấy tướng tất cả đà la ni môn, chẳng lấy tướng tất cả tam ma địa môn. Vì sao thế? Vì tất cả pháp tự tướng đều không, năng thủ sở hữu đều bất khả đắc vậy.
Như vậy, Phạm Chí chẳng đem nội đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí, chẳng đem ngoại đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí, chẳng đem nội ngoại đắc hiện quán mà quán Nhấ tthiết trí trí, chẳng đem vô trí đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí, chẳng đem các đắc khác hiện quán Nhất thiết trí trí và cũng chẳng đem bất đắc hiện quán mà quán Nhất thiết trí trí. Sở vì sao? Vì Thắng Quân Phạm Chí này chẳng thấy Nhất thiết trí trí là sở quán, chẳng thấy Bát nhã là năng quán, chẳng thấy kẻ quán và chỗ quán nương ở.
Thắng Quân Phạm Chí này chẳng phải đối nội sắc quán Nhất thiết trí trí, chẳng phải đối nội thọ tưởng hành thức quán Nhất thiết trí trí; chẳng phải đối ngoại sắc quán Nhất thiết trí trí; chẳng phải đối ngoại thọ tưởng hành thức quán Nhất thiết trí trí; chẳng phải đối nội ngoại sắc quán Nhất thiết trí trí, chẳng phải đối nội ngoại thọ tưởng hành thức quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải rời sắc quán Nhất thiết trí trí, cũng chẳng phải rời thọ tưởng hành thức quán Nhất thiết trí trí. Cho đến chẳng phải đối nội tất cả đà la ni môn quán Nhất thiết trí trí, chẳng phải đối nội tất cả tam ma địa môn quán Nhất thiết trí trí; chẳng phải đối ngoại tất cả đà la ni môn quán Nhất thiết trí trí, chẳng phải đối ngoại tất cả tam ma địa môn quán Nhất thiết trí trí; chẳng phải đối nội ngoại tất cả đà la ni môn quán Nhất thiết trí trí, chẳng phải đối nội ngoại tất cả tam ma địa môn quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải rời tất cả đà la ni môn quán Nhất thiết trí trí, cũng chẳng phải rời tất cả tam ma địa môn quán Nhất thiết trí trí. Vì sao thế? Vì hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc nội ngoại, hoặc rời nội ngoại đều bất khả đắc vậy.
Thắng Quân Phạm Chí này đem các ly tướng môn như vậy thảy đối với Nhất thiết trí trí thâm sanh tín giải. Do nhờ tín giải này, đối tất cả pháp đều không đắm lấy, vì thật tướng các pháp bất khả đắc vậy. Như vậy, Phạm Chí đem ly tướng môn đối Nhất thiết trí trí được tín giải rồi, mới đối tất cả pháp chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy nghĩ các pháp vô tướng, vì pháp tướng cùng vô tướng đều bất khả đắc vậy. Như vậy, Phạm Chí nhờ sức thắng giải đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ vậy. Khi ấy, Phạm Chí kia tự tín thắng giải, cho đến Niết bàn cũng chẳng đắm lấy. Sở vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều không, chẳng khá lấy vậy.
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật đa cũng lại như vậy. Với tất cả pháp không nên đắm lấy, mới có thể từ bờ bên này đến bờ bên kia được. Nếu đối các pháp có chút đắm lấy, thời với bờ bên kia chẳng làm sao đến được! Vậy nên Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng lấy tất cả các sắc, chẳng lấy tất cả thọ tưởng hành thức, vì tất cả pháp không chỗ lấy vậy. Cho đến chẳng lấy tất cả đà la ni môn, chẳng lấy tất cả tam ma địa môn, cũng vì tất cả pháp không chỗ lấy vậy. Bồ tát Ma ha tát này dù đối tất cả sắc, tất cả thọ tưởng hành thức; cho đến tất cả đà la ni môn, tất cả tam ma địa môn hoặc tổng hoặc biệt, đều không chỗ lấy. Nhưng vì bản nguyện chỗ tu bốn niệm trụ, cho đến tám thánh đạo chi chưa viên mãn vậy và vì bản nguyện chỗ chứng Phật mười lực, cho đến nhất thiết tướng trí chưa thành xong vậy, cho nên với khi ở thời gian giữa quyết chẳng bỏ chẳng lấy tất cả tướng mà vào Niết bàn. Bồ tát Ma ha tát này tuy năng viên mãn bốn niệm trụ, cho đến tám thánh đạo chi và năng thành xong Phật mười lực, cho đến nhất thiết tướng trí. Nhưng chẳng thấy bốn niệm trụ, cho đến tám thánh đạo chi và chẳng thấy Phật mười lực, cho đến nhất thiết tướng trí. Vì sao thế? Là bốn niệm trụ tức chẳng phải bốn niệm trụ, cho đến tám thánh đạo chi tức chẳng phải tám thánh đạo chi; và Phật mười lực tức chẳng phải Phật mười lực, cho đến nhất thiết tướng trí tức chẳng phải nhất thiết tướng trí. Vì tất cả các pháp chẳng phải pháp, chẳng phải chẳng pháp vậy. Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đối với tất cả pháp tu không chỗ lấy, mà năng hoàn thành được tất cả sự nghiệp.
--- o0o ---