Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Tập  4 - 85

date
11/12/2020

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)


Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998
--- o0o ---


Tập  4


QUYỂN THỨ 85
HỘI THỨ NHẤT
 
PHẨM HỌC BÁT NHÃ
 
THỨ 26 – 1


    Khi ấy, Thiên Đế Thích tâm sanh nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện trí huệ thẳm sâu, chẳng hoại giả danh mà thuyết pháp tánh. Phật biết ý kia nghĩ, bèn ấn khả cho kia rằng: Như tâm Kiều Thi Ca nghĩ cụ thọ Thiện Hiện trí huệ thẳm sâu, chẳng hoại giả danh mà thuyết pháp tánh. Khi ấy, Thiên Đế Thích liền bạch Phật rằng: Tôn giả Thiện Hiện với những pháp nào, chẳng hoại giả danh mà thuyết pháp tánh?


    Phật bảo: Kiều Thi Ca! Sắc chỉ giả danh, thọ tưởng hành thức chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại sắc thảy giả danh như thế, mà thuyết sắc thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì sắc thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Nhãn xứ chỉ giả danh, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại nhãn xứ thảy giả danh như thế, mà thuyết nhãn xứ thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì nhãn xứ thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Sắc xứ chỉ giả danh, thanh hương vị xúc pháp xứ chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại sắc xứ thảy giả danh như thế, mà thuyết sắc xứ thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì sắc xứ thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Nhãn giới chỉ giả danh; sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại nhãn giới thảy giả danh như thế, mà thuyết nhãn giới thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì nhãn giới thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Nhĩ giới chỉ giả danh, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ  chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại nhĩ giới thảy giả danh như thế, mà thuyết nhĩ giới thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì nhĩ giới thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Tỷ giới chỉ giả danh, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại tỷ giới thảy giả danh như thế, mà thuyết tỷ giới thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì tỷ giới thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Thiệt giới chỉ giả danh, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ  chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại thiệt giới thảy giả danh như thế, mà thuyết sắc thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì thiệt giới thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Thân giới chỉ giả danh; xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại thân giới thảy giả danh như thế, mà thuyết thân giới thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì thân giới thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Ý giới chỉ giả danh; pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại ý giới thảy giả danh như thế, mà thuyết ý giới thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì ý giới thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Địa giới chỉ giả danh, thủy hỏa phong không thức giới chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại địa giới thảy giả danh như thế, mà thuyết địa giới thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì địa giới thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Khổ thánh đế chỉ giả danh, tập diệt đạo thánh đế chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại khổ thánh đế thảy giả danh như thế, mà thuyết khổ thánh đế thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì khổ thánh đế thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Vô minh chỉ giả danh; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại vô minh thảy giả danh như thế, mà thuyết vô minh thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì vô minh thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Nội không chỉ giả danh; ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại nội không thảy giả danh như thế, mà thuyết nội không thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì nội không thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Chơn như chỉ giả danh;pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới  danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại chơn như thảy giả danh như thế, mà thuyết chơn như thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì chơn như thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Bố thí Ba la mật đa chỉ giả danh, tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại bố thí Ba la mật đa thảy giả danh như thế, mà thuyết Bố thí Ba la mật đa thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì Bố thí Ba la mật đa thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Bốn tĩnh lự chỉ giả danh; bốn vô lượng, bốn vô sắc định chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại bốn tĩnh lự thảy giả danh như thế, mà thuyết bốn tĩnh lự thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì bốn tĩnh lự thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Tám giải thoát chỉ giả danh; tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại tám giải thoát thảy giả danh như thế, mà thuyết tám giải thoát thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì tám giải thoát thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Bốn niệm trụ chỉ giả danh; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại bốn niệm trụ thảy giả danh như thế, mà thuyết bốn niệm trụ thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì bốn niệm trụ thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Không giải thoát môn chỉ giả danh; vô tướng, vô nguyện giải thoát môn chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại không giải thoát môn thảy giả danh như thế, mà thuyết không giải thoát môn thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì không giải thoát môn thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Năm nhãn chỉ giả danh, sáu thần thông chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại năm nhãn thảy giả danh như thế, mà thuyết năm nhãn thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì năm nhãn thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Phật mười lực chỉ giả danh, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại Phật mười lực thảy giả danh như thế, mà thuyết Phật mười lực thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì Phật mười lực thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Pháp vô vong thất chỉ giả danh, tánh hằng trụ xả chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại pháp vô vong thất thảy giả danh như thế, mà thuyết pháp vô vong thất thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì pháp vô vong thất thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Nhất thiết trí chỉ giả danh; đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại nhất thiết trí thảy giả danh như thế, mà thuyết nhất thiết trí thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì nhất thiết trí thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Tất cả đà la ni môn chỉ giả danh, tất cả tam ma địa môn chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại tất cả đà la ni môn thảy giả danh như thế, mà thuyết tất cả đà la ni môn thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả đà la ni môn thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Dự lưu chỉ giả danh; Nhất Lai, Bất hoàn, A la hán chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại Dự lưu thảy giả danh như thế, mà thuyết Dự lưu thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì Dự lưu thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Dự lưu hướng Dự lưu quả chỉ giả danh; Nhất Lai hướng Nhất Lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại Dự lưu hướng Dự lưu quả thảy giả danh như thế, mà thuyết Dự lưu hướng Dự lưu quả thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì Dự lưu hướng Dự lưu quả thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Độc giác chỉ giả danh; Độc giác hướng Độc giác quả chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại Độc giác thảy giả danh như thế, mà thuyết Độc giác thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì Độc giác thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chỉ giả danh, Tam miệu tam Phật đà  chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại Bồ tát Ma ha tát thảy giả danh như thế, mà thuyết Bồ tát Ma ha tát thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại


    Kiều Thi Ca! Pháp Bồ tát Ma ha tát chỉ giả danh, Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại pháp Bồ tát Ma ha tát thảy giả danh như thế, mà thuyết pháp Bồ tát Ma ha tát thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì pháp Bồ tát Ma ha tát thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại


    Kiều Thi Ca! Thanh văn thừa chỉ giả danh; Độc giác thừa, Vô thượng thừa chỉ giả danh. Giả danh như thế chẳng lìa pháp tánh. Cụ thọ Thiện Hiện chẳng hoại Thanh văn thừa  thảy giả danh như thế, mà thuyết Thanh văn thừa thảy pháp tánh. Sở vì sao? Vì Thanh văn thừa thảy pháp tánh không có hoại không chẳng hoại. Vậy nên Thiện Hiện đã thuyết, cũng không có hoại không chẳng hoại.


    Kiều Thi Ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với pháp như thế, chẳng hoại giả danh, mà thuyết pháp tánh.
 
    Cụ Thọ Thiện Hiện bảo Thiên Đế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Như vậu, như vậy. Như lời Phật đã thuyết. Các pháp bị có, không pháp nào chẳng phải giả danh. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát đã biết tất cả pháp chỉ có giả danh, nên học Bát nhã Ba la mật đa.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi sắc, chẳng học nơi thọ tưởng hành thức. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong sắc đáng học, chẳng thấy nơi trong thọ tưởng hành thức đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi nhãn xứ, chẳng học nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ . Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong nhãn xứ đáng học, chẳng thấy nơi trong nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi sắc xứ, chẳng học nơi thanh hương vị xúc pháp xứ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong sắc xứ đáng học, chẳng thấy nơi trong thanh hương vị xúc pháp xứ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi nhãn giới, chẳng học nơi sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong nhãn giới đáng học, chẳng thấy nơi trong sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi nhĩ giới; chẳng học nơi thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong nhĩ giới đáng học, chẳng thấy nơi trong thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi tỷ giới, chẳng học nơi hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong tỷ giới đáng học, chẳng thấy nơi trong hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi thiệt giới, chẳng học nơi vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong thiệt giới đáng học, chẳng thấy nơi trong vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi thân giới, chẳng học nơi xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong thân giới đáng học, chẳng thấy nơi trong xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi ý giới; chẳng học nơi pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong ý giới đáng học, chẳng thấy nơi trong pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi địa giới, chẳng học nơi thủy hỏa phong không thức giới. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong địa giới đáng học, chẳng thấy nơi trong thủy hỏa phong không thức giới đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi khổ thánh đế, chẳng học nơi tập diệt đạo thánh đế. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong khổ thánh đế đáng học, chẳng thấy nơi trong tập diệt đạo thánh đế đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi vô minh; chẳng học nơi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong vô minh đáng học, chẳng thấy nơi trong hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi nội không; chẳng học nơi ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong nội không đáng học, chẳng thấy nơi trong ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi chơn như, chẳng học nơi pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong chơn như đáng học, chẳng thấy nơi trong pháp giới cho đến bất tư nghì giới đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi bố thí Ba la mật đa, chẳng học nơi tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong bố thí Ba la mật đa đáng học, chẳng thấy nơi trong tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi bốn tĩnh lự, chẳng học nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong bốn tĩnh lự đáng học, chẳng thấy nơi trong bốn vô lượng, bốn vô sắc định đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi tám giải thoát, chẳng học nơi tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong tám giải thoát đáng học, chẳng thấy nơi trong tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi bốn niệm trụ, chẳng học nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong bốn niệm trụ đáng học, chẳng thấy nơi trong bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi không giải thoát môn; chẳng học nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong không giải thoát môn đáng học, chẳng thấy nơi trong vô tướng, vô nguyện giải thoát môn đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi năm nhãn, chẳng học nơi sáu thần thông. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong năm nhãn đáng học, chẳng thấy nơi trong sáu thần thông đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi Phật mười lực, chẳng học nơi bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong Phật mười lực đáng học; chẳng thấy nơi trong bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng  đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi pháp vô vong thất, chẳng học nơi tánh hằng trụ xả. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong pháp vô vong thất đáng học, chẳng thấy nơi trong tánh hằng trụ xả đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi nhất thiết trí, chẳng học nơi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong nhất thiết trí đáng học, chẳng thấy nơi trong đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí  đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi tất cả đà la ni môn, chẳng học nơi tất cả tam ma địa môn. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong tất cả đà la ni môn đáng học, chẳng thấy nơi trong tất cả tam ma địa môn đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi Dự lưu; chẳng học nơi Nhất Lai, Bất hoàn, A la hán. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong Dự lưu đáng học; chẳng thấy nơi trong Nhất Lai, Bất hoàn, A la hán đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi Dự lưu hướng Dư lưu quả; chẳng học nơi Nhất Lai hướng Nhất Lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong Dự lưu hướng Dự lưu quả đáng học; chẳng thấy nơi trong Nhất Lai hướng Nhất Lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi Độc giác; chẳng học nơi Độc giác hướng Độc giác quả. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong Độc giác đáng học; chẳng thấy nơi trong Độc giác hướng Độc giác quả đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi Bồ tát Ma ha tát; chẳng học nơi Tam miệu tam Phật đà. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong Bồ tát Ma ha tát đáng học; chẳng thấy nơi trong Tam miệu tam Phật đà đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi pháp Bồ tát Ma ha tát; chẳng học nơi Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong pháp Bồ tát Ma ha tát đáng học; chẳng thấy nơi trong Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đáng học vậy.


    Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, chẳng học nơi Thanh văn thừa; chẳng học nơi Độc giác thừa, Vô thượng thừa. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy nơi trong pháp Thanh văn thừa đáng học; chẳng thấy nơi trong Độc giác thừa, Vô thượng thừa đáng học vậy.


    Khi ấy, Thiên Đế Thích hỏi Thiện Hiện rằng: Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ tưởng hành thức? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ tưởng hành thức? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhãn xứ, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc xứ, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhãn giới, chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhĩ giới, chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy tỷ giới, chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thiệt giới, chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thân giới, chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy ý giới, chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ?


    Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy khổ thánh đế, chẳng thấy tập diệt đạo thánh đế? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy vô minh, chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não?


    Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nội không, chẳng thấy ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không?


Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy chơn như, chẳng thấy pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới?


    Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy bố thí Ba la mật đa, chẳng thấy tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy bốn tĩnh lự, chẳng thấy bốn vô lượng, bốn vô sắc định?


    Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy tám giải thoát, chẳng thấy tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy bốn niệm trụ, chẳng thấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi?


    Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy không giải thoát môn, chẳng thấy vô tướng, vô nguyện giải thoát môn? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy năm nhãn, chẳng thấy sáu thần thông?


    Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy Phật mười lực, chẳng thấy bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy pháp vô vong thất, chẳng thấy tánh hằng trụ xả? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhất thiết trí, chẳng thấy đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy tất cả đà la ni môn, chẳng thấy tất cả tam ma địa môn?


    Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy Dự lưu, chẳng thấy Nhất Lai, Bất hoàn, A la hán? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy Dự lưu hướng Dự lưu quả, chẳng thấy Nhất Lai hướng Nhất Lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả?


    Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy Độc giác, chẳng thấy Độc giác hướng Độc giác quả? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy Bồ tát Ma ha tát, chẳng thấy Tam miệu tam Phật đà? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy pháp Bồ tát Ma ha tát, chẳng thấy Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Bạch Đại Đức! Vì duyên nào Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy Thanh văn thừa, chẳng thấy Độc giá thừa, Vô thượng thừa?


    Thiện Hiện đáp rằng: Kiều Thi Ca! Sắc, sắc tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc. Thọ tưởng hành thức, thọ tưởng hành thức tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thọ tưởng hành thức. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc, nên chẳng học nơi sắc; chẳng thấy thọ tưởng hành thức, nên chẳng học nơi thọ tưởng hành thức. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ sắc không, thấy sắc không; chẳng lẽ thọ tưởng hành thức không, thấy thọ tưởng hành thức không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ sắc không, học nơi sắc không; chẳng lẽ thọ tưởng hành thức không, học nơi thọ tưởng hành thức không vậy.
 
    Kiều Thi Ca! Nhãn xứ, nhãn xứ tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhãn xứ. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhãn xứ, nên chẳng học nơi nhãn xứ; chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, nên chẳng học nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ nhãn xứ không, thấy nhãn xứ không; chẳng lẽ nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không, thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ nhãn xứ không, học nơi nhãn xứ không; chẳng lẽ nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không, học nơi nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không vậy.


    Kiều Thi Ca! Sắc xứ, sắc xứ tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc xứ. Thanh hương vị xúc pháp xứ, thanh hương vị xúc pháp xứ tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc xứ, nên chẳng học nơi sắc xứ; chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ, nên chẳng học nơi thanh hương vị xúc pháp xứ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ sắc xứ không, thấy sắc xứ không; chẳng lẽ thanh hương vị xúc pháp xứ không, thấy thanh hương vị xúc pháp xứ không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ sắc xứ không, học nơi sắc xứ không; chẳng lẽ thanh hương vị xúc pháp xứ không, học nơi thanh hương vị xúc pháp xứ không vậy.


    Kiều Thi Ca! Nhãn giới, nhãn giới tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhãn giới. Sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ, sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhãn giới, nên chẳng học nơi nhãn giới; chẳng thấy sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ, nên chẳng học nơi sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ nhãn giới không, thấy nhãn giới không; chẳng lẽ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ không, thấy sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ nhãn giới không, học nơi nhãn giới không; chẳng lẽ sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ không, học nơi sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ không vậy.


    Kiều Thi Ca! Nhĩ giới, nhĩ giới tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhãn giới. Thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ; thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ  tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy nhĩ giới, nên chẳng học nơi nhĩ giới; chẳng thấy thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên chẳng học nơi thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao?

    Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ nhĩ giới không, thấy nhĩ giới không; chẳng lẽ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ không, thấy thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ nhĩ giới không, học nơi nhĩ giới không; chẳng lẽ thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ không, học nơi thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy.


    Kiều Thi Ca! Tỷ giới, tỷ giới tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy tỷ giới. Hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ; hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy tỷ giới, nên chẳng học nơi tỷ giới; chẳng thấy hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên chẳng học nơi hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ tỷ giới không, thấy tỷ giới không; chẳng lẽ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ không, thấy hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ tỷ giới không, học nơi tỷ giới không; chẳng lẽ hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ không, học nơi hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy.

 

    Kiều Thi Ca! Thiệt giới, thiệt giới tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thiệt giới. Vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ; vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ  tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thiệt giới, nên chẳng học nơi thiệt giới; chẳng thấy vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên chẳng học nơi vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao?

    Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ thiệt giới không, thấy thiệt giới không; chẳng lẽ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ không, thấy vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ thiệt giới không, học nơi thiệt giới không; chẳng lẽ vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ không, học nơi vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy.


    Kiều Thi Ca! Thân giới, thân giới tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thân giới. Xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ; xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thân giới, nên chẳng học nơi thân giới; chẳng thấy xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên chẳng học nơi xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao?

    Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ thân giới không, thấy thân giới không; chẳng lẽ xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ không, thấy xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ thân giới không, học nơi thân giới không; chẳng lẽ xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ không, học nơi xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy.


    Kiều Thi Ca! Ý giới, ý giới tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy ý giới. Pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy ý giới, nên chẳng học nơi ý giới; chẳng thấy pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, nên chẳng học nơi pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ ý giới không, thấy ý giới không; chẳng lẽ pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không, thấy pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ ý giới không, học nơi ý giới không; chẳng lẽ pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không, học nơi pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không vậy.


    Kiều Thi Ca! Địa giới, địa giới tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy địa giới. Thủy hỏa phong không thức giới, thủy hỏa phong không thức giới tánh không, nên Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới. Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy địa giới, nên chẳng học nơi địa giới; chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới, nên chẳng học nơi thủy hỏa phong không thức giới. Vì cớ sao?

    Kiều Thi Ca! Vì chẳng lẽ địa giới không, thấy địa giới không; chẳng lẽ thủy hỏa phong không thức giới không, thấy thủy hỏa phong không thức giới không vậy. Kiều Thi Ca! Chẳng lẽ địa giới không, học nơi địa giới không; chẳng lẽ thủy hỏa phong không thức giới không, học nơi thủy hỏa phong không thức giới không vậy.
 

 

--- o0o ---

TIN KHÁC