1. Đạo Phật là đạo hòa bình
Có thể khẳng định ngay như thế. Không như một số các tôn giáo khác, lịch sử truyền bá đạo Phật là lịch sử những bước chân vì mục đích hạnh phúc đích thực của con người. Chính vì vậy, trên con đường mà những bước chân ấy đi qua, chưa từng có những hành vi cưỡng bức, bạo hành, tàn sát…, hoặc bằng thức này, hoặc bằng hình thức khác, nhằm mục đích lôi kéo tín đồ.
Ngay từ khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã đi qua nhiều xứ sở khác nhau của Ấn Độ lúc bấy giờ để thuyết phục, soi sáng và khai mở tâm trí cho tín đồ, thậm chí những người lãnh đạo đồ chúng của các hàng “tà giáo”, “ngoại đạo” bằng lẽ phải và lòng từ bi. Chưa bao giờ đức Phật có một lời khiếm nhã để nhục mạ người khác, dù người đó có những quan điểm bất đồng, thậm chí hành vi thóa mạ Ngài. Nhân cách của đức Phật là nhân cách của một người vĩ đại, sống và làm chủ hoàn toàn tư tưởng, ngôn ngữ và hành vi của mình.
Từ Ấn Độ, đạo Phật truyền sang các quốc gia khác cũng bằng con đường hòa bình. Chưa từng có một cuộc chiến tranh tôn giáo nào trên con đường truyền bá của đạo Phật suốt gần 3.000 năm qua. Đơn giản vì bản chất của đạo Phật là đạo hòa bình, từ bi, bất hại. Người ta đến với đạo Phật bằng tâm thức tự nguyện, muốn dấn thân vào con đường hoàn thiện đạo đức, thiền định và trí tuệ. Do đó, mọi hành vi vi phạm vào các nguyên tắc đạo đức Phật giáo như cưỡng bức, ép buộc, sát hại… vốn rất xa lạ với truyền thống truyền bá của đạo Phật.
Đức Đạt Lai Lạt Ma và giải Nobel hòa bình
Hiện nay, trên khắp hành tinh, nhiều tôn giáo đã và đang dùng nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích thu hút, thậm chí lôi kéo tín đồ. Trong chiều hướng đó, nhiều người cho rằng Phật giáo thiếu hẳn chủ trương chống lại, hay ít nhất cũng làm chậm lại quá trình này. Thực ra, Phật giáo không cần phải có những chủ chương chống lại bất kỳ một tôn giáo nào trong chiều hướng thu hút và lôi kéo tín đồ. Mọi chủ trương chống lại bất kỳ nào đó đều khiến cho Phật giáo không còn giữ đúng bản chất của mình nữa. Phật giáo chỉ và luôn luôn chỉ là tôn giáo đặc biệt, đến với con người bằng giá trị chân thật và tinh thần cao thượng của mình.
2. Giúp con người nhận diện bản chất của bản thân và cuộc đời
Khác với các tôn giáo khác, đạo Phật không tô hồng hay bôi đen thực tại, mà luôn nhìn nhận nó một bằng cái nhìn khách quan. Cái nhìn đó khái quát thành chân lý, rằng khổ đau hay bất toại nguyện là một trong các biểu hiện phổ biến nhất của cuộc đời. Căn cứ vào cái nhìn này, nhiều người vội vàng cho rằng, đạo Phật là đạo yếm thế. Điều này hoàn toàn sai lầm. Đạo Phật không yếm thế, cũng không lạc quan. Yếm thế hay lạc quan trong cái nhìn nhị nguyên chỉ thể hiện một ý niệm sai lầm, ít nhất về là phương diện nhận thức luận Phật giáo.
Trong Tứ đế – giáo lý nền tảng của đạo Phật, đức Phật đề cập tới Khổ đế hay chân lý về sự khổ như là biểu hiện phổ biến của cuộc đời; nhưng đồng thời đức Phật cũng đề cập tới Diệt đế hay Niết bàn, tức trạng thái an lạc, hạnh phúc chân thật. Do đó, thái độ đánh giá nhị nguyên yếm thế hay lạc quan đều không thể hiện cái nhìn đúng đắn về bản chất của đạo Phật. Bản chất của đạo Phật là nhìn nhận khổ đau như là một thực tại và vượt thoát nó bằng con đường hoàn thiện đạo đức – thiền định và trí tuệ. Các biểu hiện khác, nếu có, cũng chỉ là những bước đệm cần thiết cho quá trình nỗ lực hoàn thiện các phẩm chất đó mà thôi.
Từ cái nhìn này, là người Phật tử, chúng ta cần nhận thức rõ vấn đề để không rơi vào tình trạng nghi hoặc, rồi từ đó thiếu những nỗ lực cần thiết để hoàn thiện đạo đức, thiền định và trí tuệ như là con đường đưa tới đời sống giác ngộ, giải thoát mà đức Phật đã tự thân chứng đắc và giới thiệu tới chúng ta.
3. Đặt niềm tin trên nền tảng trí tuệ
Ảnh: Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Niềm tin là một vấn đề quan trọng trong giáo lý của các tôn giáo. Đạo Phật cũng đề cập tới niềm tin như là yếu tố tiên quyết của việc hoàn thiện nhân cách, đạo đức con người. Trong các yếu tố đưa tới giác ngộ, niềm tin hay tín đóng một vai trò hết sức quan trọng. Có thể nói không có niềm tin thì những nỗ lực của chúng ta trên con đường tu học, phát triển đời sống đạo đức, tâm linh thực sự rất khó đi đến kết quả mong muốn.
Tuy nhiên, niềm tin của đạo Phật không phải là thứ niềm tin mang tính mặc khải buộc con người phải tin theo một cách thiếu cân nhắc hay mù quáng. Niềm tin trong đạo Phật luôn đi kèm theo sự thể nghiệm thực tế bằng cái nhìn chân chính. Nói cách khác niềm tin của đạo Phật luôn luôn đặt trên nền tảng trí tuệ, tức phải cân nhắc, thẩm sát tường tận trước khi tin bất kỳ điều gì liên quan tới con đường đưa tới giác ngộ, giải thoát. Nếu chưa được cân nhắc, thẩm sát thì dù điều đó là điều gì, do truyền thống để lại hay bất kỳ một người nào nói, kể cả vị đạo sư của mình cũng không nên tin. Trong kinh Kalama, bản kinh nổi tiếng được trích dẫn nhiều nhất khi nói về vấn đề này, đức Phật dạy:
Này các người Kalama, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kalama, khi nào các người tự biết rõ: Các pháp này là thiện,các pháp này là không đáng chê, các pháp này được người trí khen ngợi, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời này các người Kalama, các người hãy đạt đến và an trú.”
Như vậy, đặt niềm tin trên nền tảng trí tuệ không chỉ là sự khác biệt giữa giáo lý đức Phật và giáo lý của các tôn giáo, giáo phái khác ở Ấn Độ thời bấy giờ mà còn là sự khác biệt giữa đức giáo lý đạo Phật và giáo lý của các truyền thống tôn giáo, tín ngưỡng hiện nay. Niềm tin đó mang tới cho con người một sự lựa chọn chính đáng trên nền tảng nhận thức và thẩm sát của chính bản thân mình. Nhờ đó, con người không bị rơi vào các hố sâu tín điều hay các chủ nghĩa, hoặc bằng hình thức này, hoặc hình thức khác. Và chính đặt niềm tin trên nền tảng trí tuệ như thế, đạo Phật giúp con người xác lập một niềm tin chân chính, hướng thượng, dấn thân vào các hoạt động ích lợi cho cá nhân và cộng đồng cả về phương diện vật chất lẫn đạo đức, tâm linh.
4. Đề cao lối sống tỉnh thức
Hướng con người tới đời sống tỉnh thức là mục tiêu cao nhất của đạo Phật. Tỉnh thức tức làm chủ bản thân mình trong mọi hoàn cảnh, không bị bất kỳ một thứ gì trên cuộc đời này chi phối, khiến cho tâm bất an, loạn động. Bản chất của đời sống tỉnh thức chính là chánh niệm. Chánh niệm giúp con người sống ý thức với từng trải nghiệm đi qua cuộc đời của mình, và như thế giúp con người có trách nhiệm hơn với giây phút hiện tại của đời sống. Trong đạo Phật, có thể có nhiều truyền thống khác nhau, nhưng tất cả các truyền thống đều đặt pháp tu của mình trên nền tảng chánh niệm, hoặc bằng hình thức này, hoặc bằng hình thức khác.
Phật giáo Nguyên thủy lấy Tứ niệm xứ làm pháp môn thiền quán căn bản. Ở đó, chánh niệm là yếu tố căn bản và xuyên suốt trong lộ trình tu học. Thiếu yếu tố chánh niệm, tuệ quán không được thực hiện một cách sâu sắc và trọn vẹn, và quá trình tu học được xem như thiếu định hướng đúng đắn, nếu không muốn nói là sai lầm.
Thiền tông lấy việc thấy tánh làm mục đích tối hậu cũng không thể bỏ qua yếu tố chánh niệm. Vì bỏ qua chánh niệm thì sự kiến tánh và thể hiện bản chất của đời sống giác ngộ, giải thoát không thể hoàn thành được. Chính vì vậy, khi xác định mục tiêu của thiền quán, Thiền tông xác định chánh niệm hay việc phát triển định lực là yếu tố căn bản[1]. Thực tế đời sống thiền cho chúng ta thấy điều đó. Hành giả tu học bước đầu phải thực tập tốt chánh niệm thông qua phương pháp sổ tức, tức đếm hơi thở. Sau khi thực tập phương pháp này thuần thục, hành giả được hướng dẫn chuyển sang phương pháp tùy tức, tức theo dõi hơi thở. Cả hai phương pháp này thực chất chính là thực tập đời sống chánh niệm trong khi hành thiền. Và, nếu như Thiền tông lấy sự thức tỉnh và sự thể hiện bản chất giác ngộ giải thoát trong đời sống thường nhật làm mục đích cao nhất của hành giả tu thiền thì chánh niệm chính là nền tảng giúp họ thể hiện trọn vẹn và sống động nhất mục đích đó.
“Tịnh Độ tông – một tông phái lấy việc trì niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà làm mục tiêu tu học, trên thực tế cũng không vượt ra ngoài ý nghĩa của việc thiết lập chánh niệm trong đời sống. Hạnh trong tín – nguyện – hạnh là một cách nói khác của việc thực tập niệm Phật mà ở đó chánh niệm là cơ sở nền tảng. Thực tế, thiếu chánh niệm, hành giả Tịnh Độ không thể thực hành trọn vẹn pháp môn này. Khái niệm “nhất tâm bất loạn” như là mục tiêu hướng tới vãng sanh Tịnh Độ đề cập trong kinh điển thuộc truyền thống này thực chất là cách diễn giải khác của yếu tố chánh niệm.”
Như vậy, không thể nói tới đạo Phật như một con đường và sự thể hiện bản chất giác ngộ khi bỏ qua yếu tố chánh niệm. Dù thuộc truyền thống nào, tu theo phương pháp nào, chánh niệm cũng là yếu tố mang tính nền tảng đối với hành già tu học. Nhờ yếu tố chánh niệm mà đời sống tỉnh thức của hành giả được duy trì, trở thành nền tảng cho sự giác ngộ, giải thoát như là mục đích tối hậu mà đạo Phật hướng đến.
5. Khơi mở tình thương
Sở dĩ đạo Phật tồn tại và ngày càng tiến sâu vào đời sống con người là vì đạo Phật luôn luôn xem tình thương là yếu tố căn bản kết nối con người với con người, con người với thế giới xung quanh. Thiếu tình thương đạo Phật sẽ mất đi sức sống vốn có của nó. Trong đạo Phật từ bi hay tình thương được xem là bốn phẩm chất cao thượng[2] mà bất kỳ ai muốn thể hiện trọn vẹn đời sống giác ngộ, giải thoát cũng phải hoàn thiện nó. Nói cách khác, thiếu các phẩm chất này, hành giả chưa được xem là con người cao thượng hay còn gọi là các bậc thánh nhân.
Trong đạo Phật, tình thương được dịch từ khái niệm từ bi, một khái niệm kép với nội hàm là sự thương yêu đưa tới một đời sống đạo đức cao đẹp. Tình thương không đưa tới một đời sống đạo đức cao đẹp thì không phải là tình thương mà đạo Phật nói đến. Tình thương mà đạo Phật khơi mở nơi con người là tình thương gắn liền với hành động thiết thực, nhằm nâng đỡ con người, hướng con người đến sự thực tập con đường đưa tới an lạc, hạnh phúc đích thực, ngoài ra không còn mục tiêu nào khác. Khái quát ý nghĩa này, Hòa thượng Piyadassi nói:
Tình thương là một sức mạnh tích cực. Mỗi hành động của tình thương thể hiện với một tâm ý trong sạch để nâng đỡ, cứu trợ, khích lệ, giúp người khác tiến bước dễ dàng, êm ái và thích nghi hơn cho việc chiến thằng phiền não, đạt hạnh phúc tối thượng.”
Đó là tình thương đích thực của đạo Phật. Để có tình thương đích thực đó, đạo Phật cho rằng cần phải có trí tuệ soi sáng. Tình thương không có trí tuệ là thứ tình thương mù quáng, gắn liền với bất hạnh, khổ đau. Trong đạo Phật, người ta thường ví tình thương theo nghĩa Phật học với tình thương của người mẹ. Đó là một cách ví von mang tính tượng trưng. Tình thương trong đạo Phật, thậm chí còn cao cả hơn tình thương của một người mẹ dành cho con. Bởi vì tình thương mẹ dành cho con, mặc dù rất thiêng liêng, cao cả, nhưng suy cho cùng, xuất phát từ ái, một yếu tố gắn liền với bất hạnh khổ đau. Trong khi tình thương trong đạo Phật là thứ tình thương tươi mát, không gắn liền với ái, mà đưa tới trạng thái tâm hỷ lạc.
Không chỉ có tình thương với con người, đạo Phật còn hướng tình thương con người tới thế giới xung quanh. Vì bản chất của tồn tại là duyên sanh, là tương tác đa chiều giữa con người và thế giới. Do đó dành tình thương cho thế giới xung quanh cũng chính là dành tình thương cho con người. Và đó cũng chính là sự biểu hiện sâu sắc nhất nội hàm tình thương của đạo Phật trong tương quan với trí tuệ như là yếu tố soi sáng, dẫn đường.
6. Cung cấp nền tảng căn bản đạo đức thuần khiết cho con người
Đây là điểm nổi bật của đạo Phật. Khái niệm đạo đức thuần khiết bao hàm những giá trị mang tính lành mạnh, trong sáng và hướng tới viễn ly đời sống nhiễm ô, thiết lập đời sống phạm hạnh. Chính vì vậy, không thể chỉ xem đạo đức của đạo Phật là một hệ thống các giá trị luân lý. Trong ý nghĩa bao hàm cả luân lý, đạo đức Phật giáo còn hướng tới giá trị giải thoát. Nếu không hướng tới giá trị này, có thể đạo đức Phật giáo chỉ dừng lại ở ý nghĩa luân lý, vốn là những giá trị thống thường trong hệ thống đạo đức của các tôn giáo khác.
Nội dung của đạo đức Phật giáo có thể tìm thấy ở giới luật. Đó là các nguyên tắc được thiết lập trên nền tảng của tình thương, không mang tính giáo điều mà thể hiện tính tự nguyện của hành giả tu học trong việc hướng tới đời sống lành mạnh, chuẩn mực, thậm chí giác ngộ, giải thoát. Có một điểm đặc biệt trong đạo đức của đạo Phật là không chỉ dừng lại ở việc ngăn cấm người Phật tử không được làm điều xấu ác, mà còn khuyến khích họ nỗ lực thực hiện các việc thiện lành. Ở đây ta có thể lấy Ngũ giới, tức Năm nguyên tắc đạo đức căn bản của người Phật tử làm ví dụ.
Giới thứ 1 không chỉ không được sát hại mà còn nỗ lực bảo hộ sinh mạng mọi loài;
Giới thứ 2 không những không được trộm cắp, mà còn phải tôn trọng sở hữu của người khác.
Giới thứ 3 người Phật tử không được tà dâm mà còn nỗ lực bảo vệ đời sống hạnh phúc của gia đình người khác.
Giới thứ 4 không nói vọng, nỗ lực nói lời chân chánh, hàn gắn, động viên, khích lệ.
Giới thứ 5 không uống rượu và các gây say, ý thức trong việc tiếp nhận thực phẩm, kể cả thức ăn của tâm thức.
Từ phân tích trên cho thấy, điểm thiết yếu của đạo đức Phật giáo là gắn liền với những nỗ lực thực hành hơn là một hệ thống các nguyên tắc tiêu cực chỉ hướng tới việc ngăn cắm. Bởi vì, theo quan điểm của đạo Phật, đạo đức chỉ là phương tiện dẫn đến mục tiêu cuối cùng của hạnh phúc tối thượng, tức đời sống giác ngộ giải thoát. Ở đó, mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về tất cả các hành vi của mình chứ không phải thụ động chờ đợi một sự ban ơn nào khác từ bên ngoài. Ngay cả đức Phật cũng chỉ là vị thầy chỉ đường, người soi sáng, để mỗi cá nhân tự nỗ lực hướng đến hoàn thiện con đường mà mình đã chọn. Đức Phật trong đạo Phật chưa bao giờ được quan niệm là người sáng tạo và nắm toàn quyền quyết định vận mạng của con người. Giá trị đạo đức tâm linh phải tự con người nỗ lực hoàn thiện, và chỉ có trong ý nghĩa đó, đạo đức Phật giáo mới thực sự thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của nó. Một trong những đoạn kinh nổi tiếng, nói rõ vấn đề này được tìm thấy trong tạng kinh của Phật giáo, trình bày như sau:
“Chớ làm các việc ác
Hãy làm các việc lành
Tự thanh lọc tâm ý
Đó là lời Phật dạy”[3]
Từ nội dung bài kệ trên, có thể khẳng định lại một lần nữa, nền tảng đạo đức căn bản của đạo Phật không chỉ dừng lại ở ý nghĩa luân lý, mà hơn hết, hướng tới mục tiêu thanh lọc tâm ý hay đời sống giác ngộ, giải thoát. Nói cách khác, đạo đức Phật giáo thể hiện rõ nét hai cấp độ giá trị: giá trị luân lý và giá trị vượt thoát khổ đau. Hai cấp độ giá trị đó là điểm nổi bậc của hệ thống đạo đức Phật giáo, và chính nhờ giá trị này, đạo Phật vừa có thể cung cấp cho đời sống xã hội một nền tảng giá trị đạo đức mang tính phổ quát như là phương tiện để hướng tới việc hoàn thiện nhân cách, đồng thời cũng vừa mang đến cho những ai muốn thanh lọc thân tâm, sống một cuộc sống an lạc, hạnh phúc theo định hướng giác ngộ, giải thoát mà đức Phật đã khuyến khích.
7. Vì mục tiêu hạnh phúc, an lạc cho cuộc đời
An lạc và hạnh phúc và mục đích cao nhất của con người khi đến với đạo Phật. Tuy nhiên, đạo Phật không chỉ hướng tới đời sống hạnh phúc cá nhân cho một thiểu số mà luôn luôn hướng đến hạnh phúc cộng đồng. Ngay từ khi mới thành lập Tăng đoàn, số lượng các thầy tỳ kheo chưa đông, chỉ khoảng 60 vị, đức Phật đã dạy họ chia nhau mà đi mỗi người một hướng để chia sẻ an lạc, hạnh phúc với cuộc đời:
Này các Tỳ kheo!… hãy lên đường vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một ngả, hãy truyền bá chánh pháp… Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp cao siêu, hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác; được vậy, là các ông đã hoàn tất nhiệm vụ”[4].
Ngay cả khi trước khi nhập diệt, đức Phật vẫn không quên dặn dò các đệ tử ra sức truyền bá chánh pháp, vì lợi ích chung của Trời người:
Này các Tỷ-kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các ngươi, các ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.”[5]
Điều này cho thấy, không phải chỉ đến Phật giáo Đại thừa, việc thực hiện con đường giác ngộ tự thân và giác ngộ người khác mới trở thành mục tiêu của lý tưởng giác ngộ, giải thoát, mà ngay trong thời kỳ đức Phật còn tại thế, mục tiêu này đã được Tăng đoàn của đức Phật xem là lý tưởng mà các vị ấy phải thực hiện trong đời sống này.
Chính nhờ vào tinh thần này mà ngày nay, đạo Phật đã có mặt khắp nơi trên thế giới. Và như nhà khoa học lỗi lạc, Albert Einstein đã nói, Phật giáo còn tiến xa hơn, sẽ trở thành tôn giáo của tương lai nhân loại.
[1] Philip Kapleau (Đỗ Đình Đồng dịch) 2014: Ba trụ thiền – Giáo lý – Tu tập – Giác ngộ. – NXB Thế Giới, tr.70.
[2] Tứ vô lượng tâm, bao gồm: Từ, Bi, Hỷ và Xả.
[3] Kinh Pháp cú, 183.
[4] Mahàvagga – Đại Phẩm, Luật tạng, chương Trọng yếu, tụng phẩm thứ 2, đoạn 32.
[5] ĐTKVN Nam truyền (HT. Thích Minh Châu dịch) 2012: “Đại bát Niết bàn, số 16” – Trường Bộ. – NXB Tôn giáo, tr.313.
Diệu Âm Chí Hiếu