Chùa Báo Quốc ban đầu có tên là Hàm Long Sơn Thiên Thọ Tự, do Thiền sư Giác Phong (du tăng người Quảng Đông, Trung Quốc) dựng vào cuối thế kỷ 17, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nơi ngài Liễu Quán đến học đạo và ở lại trong 11 năm. Tổ Giác Phong viên tịch năm 1714.
Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”, bên trái có ghi hàng chữ Quốc Vương Từ Tế đạo nhân ngự đề, bên phải có dòng lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật. Ngoài ra còn có dấu chạm khắc hình bốn cái ấn, một cái triện tròn khắc chữ Quốc Chúa Nam Hà. Trụ trì chùa thời gian này là Thiền sư Tế Nhơn, một trong những cao đệ đắc pháp của Tổ Liễu Quán. Kế thế trụ trì là các ngài Tế Ân, Trí Hải, Đại Trí …
Đến năm 1747, Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cho trùng tu chùa và ban cho chùa tấm biển chữ Hán “Sắc Tứ Báo Quốc Tự”
Năm 1776, chùa bị hư hỏng nặng, rơi vào cảnh hoang phế. Cho đến năm 1808, hoàng hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây tam quan, chú tạo nhiều tượng Phật, đúc bảo khánh, đại hồng chung … Đại hồng chung cao 3 thước 5 tấc, đường kính miệng chuông là 2 thước 5 phân xưa, nặng 836 cân; thân chuông có khắc tên hoàng hậu là người đứng ra chú tạo chuông, ben trên khắc chữ triện tên bốn mùa. Vua Gia Long chỉ dụ đổi tên chùa là Thiên Thọ Tự. Thiền sư Đạo Minh - Phổ Tịnh từ chùa Thiền Tôn được cử làm trụ trì trong thời gian này. Ngoài việc tái thiết ngôi chùa, hoàng hậu Hiếu Khương đã xin 30 mẫu ruộng nước và 10 mẫu đất khô tặng cho chùa làm tự điền; và bà can thiếp lấy lại 22 mẫu đất bị dân chúng chiếm đoạt dưới thời Tây Sơn để trả lại cho chùa.
Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc lấy tên “Báo Quốc Tự”, vì chữ Thiên Thọ để chỉ núi và lăng vua Gia Long là Thiên Thọ Sơn và Thiên Thọ Lăng. Nhà vua đã tổ chức đại giới đàn tại chùa nhân lễ tứ tuần khánh thọ vào năm 1830. Trong dịp này, nhà vua đã cho tổ chức sát hạch để cấp giới đao và độ điệp cho các nhà sư trong cả nước tinh nghiêm về giới luật.
Năm 1824, vua Minh Mạng ngự thăm chùa và sắc lấy tên “Báo Quốc Tự”
Đến năm 1858, do chùa bị hư hỏng nhiều, vua Tự Đức và hoàng thái hậu Từ Dũ đã ban tiền trùng tu ngôi chánh điện và các công trình khác. Đời Tự Đức và đời Thành Thái, nhiều buổi lễ lớn được tổ chức ở chùa. Vị Tăng cang được tôn kính thời bấy giờ là Hòa thượng Diệu Giác. Năm 1894, ngài mở Đại giới đàn ở chùa Báo Quốc; năm 1895, ngài viên tịch, thọ 91 tuổi. Kế tục là các Hòa thượng Tâm Quảng, Tâm Truyền và Tâm Khoang làm Tăng cang chùa Báo Quốc.
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, vào những năm 1930, chùa đã có nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Năm 1935, Trường sơ đẳng Phật học được mở tại chùa. Đến năm 1940, Trường cao đẳng Phật học cũng lại được mở tại đây. Chùa trở thành một trung tâm đào tạo Tăng Ni cho đến ngày nay.
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, vào những năm 1930, chùa đã có nhiều đóng góp về mặt đào tạo tăng tài cho Phật giáo.
Theo Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế: “Năm 1948, An Nam Phật Học Hội dời Sơn môn Phật học đường từ chùa Linh Quang về chùa Báo Quốc do Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, sau này trở thành Tăng Thống Giáo hội, làm Giám đốc. Chùa Báo Quốc đã trở thành một trung tâm đào tạo tăng tài. Người tiếp nối sự nghiệp giáo dục tăng ni và làm trụ trì chùa Báo Quốc là Hòa thượng Thích Trí Thủ. Hòa thượng cũng là người lập ra trường Bồ Đề ở thành nội năm 1952 mà về sau phát triển thành một hệ thống trường Bồ Đề khắp các tỉnh miền Trung và miền Nam trước năm 1975. Ngày nay chùa Báo Quốc là nơi đặt trường trung cấp Phật học Huế. Chùa còn giữ được Hàm Long Sơn Chí, một tác phẩm của Điềm Tịnh cư sĩ bằng chữ Hán ghi lại lịch sử phát triển của Phật giáo Thuận Hóa”.
Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa. Hòa thượng Thích Trí Thủ, vừa là Giám đốc Phật học đường, vừa là trụ trì chùa, đã có những đóng góp to lớn cho Phật giáo Việt Nam nói chung và cho việc tái thiết ngôi tổ đình trang nghiêm với nét kiến trúc cổ kính nói riêng.
Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và Ban Quản trị chùa đã tổ chức đại trùng tu ngôi chùa.
Ngày 06/4/2016 (ngày 29/02 năm Bính Thân), Đại giới đàn Giác Phong do Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức đã trang nghiêm khai mạc tại chùa Báo Quốc. Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quang được cung thỉnh chứng minh giới đàn, Hòa thượng Thích Đức Phương được cung thỉnh vào ngôi Hòa thượng Đường đầu. Có 566 giới tử xuất gia đăng ký thọ giới. Sau kỳ khảo thí, có 461 giới tử trúng tuyển (89 Tỳ kheo, 47 Tỳ kheo ni, 96 Thức xoa ma na ni, 133 Sa di và 96 Sa di ni).
Trụ trì chùa ngày nay là Hòa thượng Thích Đức Thanh, Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN, Trưởng Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Thừa Thiên Huế.
Đến chùa, công trình mỹ thuật đồ sộ đầu tiên là cổng tam quan. Cổng được Hoàng hậu Hiếu Khương cho xây vào năm 1808 và trùng tu vào năm 1873. Mặt trước cổng khắc tên chùa bằng chữ Hán: Sắc tứ Báo Quốc Tự; mặt sau lại khắc: Hàm Long Thiên Thọ Tự. Qua cổng tam quan, qua sân rộng, phía trái là vườn tháp mộ của những vị Tăng cang hoặc trụ trì chùa như: Tổ Giác Phong, Tổ Phổ Tịnh, Tổ Viên Giác, Tổ Diệu Giác …
Chùa được xây dựng kiểu chữ “khẩu” trong khuôn viên rộng khoảng 2 hecta. Nhiều ngôi tổ đình ở Huế xây theo kiểu này: mặt trước là ngôi chánh điện, phía sau ngôi chánh điện hai bên có hai dãy nhà là nhà khách và tăng xá, sau cùng là nhà hậu. Các dãy nhà khép kín thành hình vuông trông giống chữ “khẩu” trong chữ Hán. Không gian ở giữa là vườn cây cảnh. Kiểu kiến trúc này đã tạo ra một không gian yên tĩnh, thoáng mát, có được ánh sáng lẫn hương vị hoa trái đến các dãy nhà.
Ngôi chánh điện xây trùng lương trùng thiềm, là kiểu kiến trúc truyền thống của Việt Nam, xây nhà kép hai mái trên một nền; nóc chùa có hai rồng chầu vào một mặt rồng đội pháp luân ở giữa có chữ “vạn”. Tiền đường có 4 trụ đắp rồng nổi, ở thành bậc tam cấp cũng có đôi rồng, vách tường hai bên trang trí hoa văn bằng mảnh sành rất đẹp.
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Các tượng thờ đều đặt trong khung kính. Án giữa thờ tượng Phật Tam Thế, đức Phật Thích Ca và hai tôn giả Ca Diếp, A Nan. Án hai bên thờ tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Địa Tạng.
Tiền đường có 4 trụ đắp rồng nổi, ở thành bậc tam cấp cũng có đôi rồng, vách tường hai bên trang trí hoa văn bằng mảnh sành rất đẹp.
Trang huefestival.com, bài Chùa Báo Quốc cho biết: “Từ năm 1959, trong khuôn viên của chùa, trường tiểu học Hàm Long được thành lập do thầy Thiên Ân làm hiệu trưởng. Đến năm học 1961-1962, trưởng mở thêm bậc trung học do thầy Thân Trọng Hy làm hiệu trưởng. Kế tiếp hiệu trưởng là các thầy: Trương Như Thung, Thích Phước Hải, Thích Thiện Hạnh, Thích Đức Thanh, Thích Hải Ấn. Ban đầu trường có tên là Trường trung tiểu học tư thục Hàm Long, sau đổi tên là Trường Bồ Đề Hàm Long, hoạt động đến năm 1975”.
Dưới chân đồi có giếng Hàm Long nổi tiếng. Ở đây có tấm bia dựng năm Ất Dậu (2005) ghi chữ quốc ngữ: “ Giếng Hàm Long có tên chữ Hán là Hàm Long Tĩnh. Theo bộ Hàm Long Sơn Chí: “Giếng xuất hiện cùng thời với việc khai sơn chùa Báo Quốc khoảng năm 1674”. Đáy giếng có đá như hàm rồng, nước trong đá tuôn ra mát lạnh có vị ngọt nên ngạn ngữ có câu: “Giếng Hàm Long trong lại ngọt; Anh thương em rày có Bụt chứng tri”. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí: “Buổi đầu khai quốc, các quan lại triều đình thường lấy nước giếng này để Vua dùng nên lại có tên là Giếng Cấm”.
Chùa là ngôi tổ đình danh tiếng ở Huế xưa nay.
chuaviet.org tổng hợp