Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998
--- o0o ---
Tập 2
QUYỂN THỨ 36
DẠY BẢO DẠY TRAO
Thứ 7 - 26
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu vi vô vi, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu vi vô vi tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu lậu vô lậu, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu lậu vô lậu tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề sanh diệt, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề sanh diệt tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thiện phi thiện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thiện phi thiện tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu tội vô tội, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu tội vô tội tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu phiền não vô phiền não, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu phiền não vô phiền não tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu phiền não hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thế gian xuất thế gian, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thế gian xuất thế gian tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thế gian hoặc xuất thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tạp nhiễm thanh tịnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tạp nhiễm thanh tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thuộc sanh tử thuộc Niết bàn, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ở trong ở ngoài ở giữa hai, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khả đắc bất khả đắc, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khả đắc bất khả đắc tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Bạch Thế Tôn, Sắc thảy pháp và tăng ngữ, sắc thảy thường vô thường thảy pháp và tăng ngữ đã bất khả đắc. Mà nói sắc thảy pháp tăng ngữ và sắc thảy thường vô thường thảy pháp tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát, ấy là không có lẽ vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay! Như vậy! Như vậy! Như Ngươi đã nói. Thiện Hiện! Sắc thảy pháp và sắc thảy thường vô thường thảy pháp vì bất khả đắc, nên sắc thảy pháp tăng ngữ và sắc thảy thường vô thường thảy pháp tăng ngữ cũng bất khả đắc. Vì pháp và tăng ngữ bất khả đắc, nên Bồ tát Ma ha tát cũng bất khả đắc. Vì Bồ tát Ma ha tát bất khả đắc, nên sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, nên cứ như thế mà học.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi trước đã nói tôi chẳng thấy có pháp đáng gọi Bồ tát Ma ha tát ấy. Như vậy như vậy! Như lời Ngươi đã nói.
Thiện Hiện! Các pháp chẳng thấy các pháp, các pháp chẳng thấy pháp giới; pháp giới chẳng thấy các pháp, pháp giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy sắc giới, sắc giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thọ tưởng hành thức giới, thọ tưởng hành thức giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy nhãn xứ giới, nhãn xứ giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy sắc xứ giới, sắc xứ giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ giới, thanh hương vị xúc pháp xứ giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, thanh giới, nhĩ thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thân giới, xúc giới, thân thức; thân giới, xúc giới, thân thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy địa giới, địa giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới, thủy hỏa phong không thức giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy khổ thánh đế giới, khổ thánh đế giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy tập diệt đạo thánh đế giới, tập diệt đạo thánh đế giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy vô minh giới, vô minh giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy hành thức danh-sắc lục-xứ xúc thọ ái thủ hữu sanh lão tử sầu thán khổ ưu não giới, hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy Dục giới, Dục giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy Sắc, Vô sắc giới; Sắc, Vô sắc giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Hữu vi giới chẳng thấy vô vi giới, vô vi giới chẳng thấy hữu vi giới. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì chẳng rời hữu vi mà thi thiết vô vi và chẳng phải rời vô vi mà thi thiết hữu vi được!
Thiện Hiện! Như vậy Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đối tất cả pháp đều vô sở kiến. Khi mà đối tất cả pháp vô sở kiến, tâm kia mới bất kinh bất khủng bất bố, vì đối tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối. Sở vì sao?
Là Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ tưởng hành thức; chẳng thấy nhãn xứ, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ; chẳng thấy sắc xứ, chẳng thấy sắc xứ, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ; chẳng thấy nhãn giới, sắc giới, nhãn giới; chẳng thấy nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới; chẳng thấy tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; chẳng thấy thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; chẳng thấy thân giới, xúc giới, thân thức giới; chẳng thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới. Chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy hỏa phong không thức giới. Chẳng thấy khổ thánh đế, chẳng thấy tập diệt đạo thánh đế. Chẳng thấy vô minh; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Chẳng thấy Dục giới, chẳng thấy Sắc giới, Vô sắc giới. Chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi. Chẳng thấy tham sân si, chẳng thấy diệt tham sân si. Chẳng thấy ngã; chẳng thấy hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả kiến. Chẳng thấy Thanh văn, chẳng thấy pháp Thanh văn. Chẳng thấy Ðộc giác, chẳng thấy pháp Ðộc giác. Chẳng thấy Bồ tát, chẳng thấy pháp Bồ tát. Chẳng thấy Phật, chẳng thấy pháp Phật và chẳng thấy Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Như vậy Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp đều vô sở kiến. Khi mà đối tất cả vô sở kiến, tâm kia mới bất kinh bất khủng bất bố. Ðối tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối!
Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì nên Bồ tát Ma ha tát này đối với tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối? Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khắp đối tất cả pháp tâm, tâm sở bất đắc, bất kiến. Do nhân duyên đây nên Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa: Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp, tâm kia bất kinh bất khủng bất bố? Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khắp đối tất cả ý giới, ý thức giới bất đắc, bất kiến. Như vậy Bồ tát Ma ha tát đói tất cả pháp, tâm kia bất kinh bất khủng bất bố. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối với tất cả pháp đều vô sở đắc, nên hành Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đối tất cả chỗ bất đắc Bát nhã Ba la mật đa, bất đắc danh Bát nhã Ba la mật đa; bất đắc Bồ tát, bất đắc danh Bồ tát, bất đắc tâm Bồ tát.
Thiện Hiện! Nên như vậy mà dạy bảo dạy trao cho các Bồ tát Ma ha tát, khiến cho đối với Bát nhã Ba la mật đa tu học rốt ráo!
KHUYẾN HỌC
Thứ 8
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát muốn mãn bố thí Ba la mật đa, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp sắc, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thọ tưởng hành thức, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhãn xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp sắc xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thanh hương vị xúc pháp xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp địa giới, phải học Bát nhã Ba la mật. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thủy hỏa phong không thức giới, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp khổ thánh đế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp tập diệt đạo thánh đế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp vô minh, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn tham sân si, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt tát đa da kiến, giới cấm thủ, nghi, dục, tham sân nhuế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn sắc tham, vô sắc tham, vô minh, mạn, điệu cử, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn triền kiết, tùy miên, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn bốn thực, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn bốn dòng bạo lưu ách thủ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn bốn trói thân, bốn điên đảo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn ba lậu, ba bất thiện căn, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn xa lìa mười bất thiện nghiệp đạo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tập hành mười thiện nghiệp đạo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tu bốn niệm trụ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn được Phật mười lực, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được sáu thần thông tự tại, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, định diệt tận thứ lớp vượt lên thuận nghịch tự tại, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn nơi tất cả pháp môn đà la ni, pháp môn tam ma địa đều được tự tại, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được tam ma địa Ðủ giác chi, tam ma điạ Sư tử du hý, tam ma địa Sư tử phấn tấn, tam ma địa Sư tử tần thân, tam ma địa Sư tử xuy khư, tam ma địa Kiện hành, tam ma địa Bảo ấn, tam ma địa Diệu nguyệt, tam ma địa Nguyệt tràng tướng, tam ma địa Nhất thiết pháp ấn, tam ma địa Quán đỉnh ấn, tam ma địa Pháp giới quyết định, tam ma địa Quyết định tràng tướng, tam ma địa Kim cương dụ, tam ma địa Nhập nhất thiết pháp ấn, tam ma địa An trụ định vương, tam ma địa Vương ấn, tam ma địa Tinh tiến lực, tam ma địa Ðẳng dũng, tam ma địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, tam ma địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, tam ma địa Nhập nhất thiết danh tự quyết định, tam ma địa Quán phương, tam ma địa Ðà la ni ấn, tam ma địa Vô vong thất, tam ma địa Chư pháp đẳng thú hải ấn, tam ma địa Biến phú hư không, tam ma địa Tam luân thanh tịnh, tam ma địa Thú hướng bất tối chuyển thần thông, tam ma địa Khí trung dũng xuất, tam ma địa Tối thắng tràng tướng, tam ma địa Thiêu chư phiền não, tam ma địa Hàng phục bốn ma, tam ma địa Ðại trí huệ cự và tam ma địa Xuất sanh mười lực. Bồ tát Ma ha tát muốn được như thế thảy vô lượng trăm ngàn pháp môn tam ma địa, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn mãn tâm sở nguyện của tất cả hữu tình, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn mãn thù thắng thiện căn như thế, do nhờ thiện căn đây hẳn chẳng đọa ác thú, chẳng sanh nhà bần tiện, chẳng đọa Thanh văn và bực Ðộc giác, với Bồ tát Ðỉnh quyết chẳng lai đọa, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì sao gọi là Bồ tát Ðỉnh đọa? Thiện Hiện đáp: Nếu các Bồ tát không có phương tiện khéo léo mà hành sáu Ba la mật đa, không có phương tiện khéo léo trụ ba môn giải thoát, là đọa nơi Thanh văn hoặc bực Ðộ giác, chẳng vào được Bồ tát Chánh tánh Ly sanh. Như vậy gọi là Bồ tát Ðỉnh đọa. Tức Ðỉnh đọa này cũng gọi là Sanh đấy.
Tức thì Xá Lợi Tử lại hỏi nữa: Vì duyên gì Bồ tát Ðỉnh đọa gọi Sanh? Thiện Hiện đáp: Sanh nghĩa là pháp ái. Nếu các Bồ tát thuận đạo pháp ái gọi là Sanh. Xá Lợi Tử hỏi: Bồ tát thuận đạo pháp ái nghĩa là gì? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, với sắc trụ không mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ không mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô tướng mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô thường mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô nguyện mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô tướng mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô nguyện mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức vô trụ vô nguyện mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô thường mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô thường mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ khổ mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ khổ mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô ngã mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô ngã mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ bất tịnh mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ bất tịnh mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ tịch tĩnh mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ tịch tĩnh mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ viễn ly mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ viễn ly mà khởi tưởng đắm. Ðấy gọi là Bồ tát thuận đạo pháp ái.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác khởi nghĩ này: Ðây sắc phải dứt, đây thọ tưởng hành thức phải dứt. Do đấy nên sắc cần dứt, do đấy nên thọ tưởng hành thức cần dứt. Ðây khổ phải biết khắp, do đấy nên khổ cần biết khắp. Ðây tập phải dứt hẳn, do đấy nên tập cần dứt hẳn. Ðây diệt phải tác chứng, do đấy nên diệt phải tác chứng. Ðây đạo phải tu tập, do đấy nên đạo phải tu tập. Ðây tạp nhiễm, đây thanh tịnh. Ðây nên gần gũi, đây chẳng nên gần gũi. Ðây nên hành, đây chẳng nên hành. Ðây đạo, đây phi đạo. Ðây nên học, đây chẳng nên học.
Ðây là bố thí Ba la mật, đây chẳng phải bố thí Ba la mật đa. Ðây là tịnh giới Ba la mật đa, đây chẳng phải tịnh giới Ba la mật đa. Ðây la an nhẫn Ba la mật đa, đây chẳng phải an nhẫn Ba la mật đa. Ðây là tinh tiến Ba la mật đa, đây chẳng phải tinh tiến Ba la mật đa. Ðây là tĩnh lự Ba la mật đa, đây chẳng phải tĩnh lự Ba la mật đa. Ðây là bát nhã Ba la mật đa, đây chẳng phải bát nhã Ba la mật đa. Ðây là phương tiện khéo léo, đây chẳng phải phương tiện khéo léo. Ðây là Bồ tát sanh, đây là Bồ tát ly sanh.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa an trụ như thế mà sanh tưởng đắm, đấy là Bồ tát thuận đạo pháp ái. Pháp ái như thế gọi danh là Sanh. Như ăn đồ cách đêm năng đêm sanh bệnh hoạn.
Lúc đó, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Bồ tát Ma ha tát vào Chánh tánh Ly sanh là nghĩa ra sao?
Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy nội không, chẳng đợi nội không mà quán ngoại không. Chẳng thấy ngoại không, chẳng đợi ngoại không mà quán nội không; chẳng đợi ngoại không mà quán nội ngoại không. Chẳng thấy nội ngoại không, chẳng đợi nội ngoại không mà quán ngoại không; chẳng đợi nội ngoại không mà quán không không. Chẳng thấy không không, chẳng đợi không không mà quán đại không. Chẳng thấy đại không, chẳng đợi đại không mà quán thắng nghĩa không. Chẳng thấy thắng nghĩa không, chẳng đợi thắng nghĩa không mà quán hữu vi không. Chẳng thấy hữu vi không, chẳng đợi hữu vi không mà quán thắng nghĩa không; chẳng đợi hữu vi không mà quán vô vi không. Chẳng thấy vô vi không, chẳng đợi vô vi không mà quán tất cảnh không. Chẳng thấy tất cảnh không, chẳng đợi tất cảnh không mà quán vô vi không; chẳng đợi tất cảnh không mà quán vô tế không. Chẳng thấy vô tế không, chẳng đợi vô tế không mà quán tất cảnh không; chẳng đợi vô tế không mà quán tán không. Chẳng thấy tán không, chẳng đợi tán không mà quán vô tế không; chẳng đợi tán không mà quán vô biến dị không. Chẳng thấy vô biến dị không, chẳng đợi vô biến dị không mà quán tán không; chẳng đợi vô biến dị không mà quán bổn tánh không. Chẳng thấy bổn tánh không, chẳng đợi bổn tánh không mà quán vô biến dị không; chẳng đợi bổn tánh không mà quán tự tướng không. Chẳng thấy tự tướng không, chẳng đợi tự tướng không mà quán bổn tánh không; chẳng đợi tự tướng không mà quán cộng tướng không. Chẳng thấy cộng tướng không, chẳng đợi cộng tướng không mà quán tự tướng không; chẳng đợi cộng tướng không mà quán nhất thiết không; chẳng đợi cộng tướng không mà quán nhất thiết pháp không. Chẳng thấy nhất thiết pháp không, chẳng đợi nhất thiết pháp không mà quán cộng tướng không; chẳng đợi nhất thiết pháp không mà quán bất khả đắc không. Chẳng thấy bất khả đắc không, chẳng đợi bất khả đắc không mà quán nhất thiết pháp không; chẳng đợi bất khả đắc không mà quán vô tánh không. Chẳng thấy vô tánh không, chẳng đợi vô tánh không mà quán bất khả đắc không; chẳng đợi vô tánh không mà quán tự tánh không. Chẳng thấy tự tánh không, chẳng đợi tự tánh không mà quán vô tánh không; chẳng đợi tự tánh không mà quán vô tánh tự tánh không. Chẳng thấy vô tánh tự tánh không, chẳng đợi vô tánh tự tánh không mà quán tự tánh không.
Xá Lợi Tử! Khi hành Bát nhã Ba la mật đa, nếu Bồ tát Ma ha tát tác khởi quán này, gọi là vào Bồ tát Chánh tánh Ly sanh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa các Bồ tát Ma ha tát nên học như vậy: Sắc nên biết chẳng nên chấp, thọ tưởng hành thức nên biết chẳng nên chấp; danh sắc nên biết chẳng nên chấp, danh thọ tưởng hành thức nên biết chẳng nên chấp. Nhãn xứ nên biết chẳng nên chấp, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ nên biết chẳng nên chấp; danh nhãn xứ nên biết chẳng nên chấp, danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ nên biết chẳng nên chấp. Sắc xứ nên biết chẳng nên chấp, thanh hương vị xúc pháp xứ nên biết chẳng nên chấp; danh sắc xứ nên biết chẳng nên chấp, danh thanh hương vị xúc pháp xứ nên biết chẳng nên chấp.
Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới nên biết chẳng nên chấp. Nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên biết chẳng nên chấp. Tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới nên biết chẳng nên chấp. Thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới nên biết chẳng nên chấp. Thân giới, xúc giới, thân thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh thân giới, xúc giới, thân thức giới nên biết chẳng nên chấp. Ý giới, pháp giới, ý thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh ý giới, pháp giới, ý thức giới nên biết chẳng nên chấp.
Ðịa giới nên biết chẳng nên chấp, thủy hỏa phong không thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh địa giới nên biết chẳng nên chấp, danh thủy hỏa phong không thức giới nên biết chẳng nên chấp.
Khô thánh đế nên biết chẳng nên chấp, tập diệt đạo thánh đế nên biết chẳng nên chấp; danh khổ thánh đế nên biết chẳng nên chấp, danh tập diệt đạo thánh đế nên biết chẳng nên chấp.
Vô minh nên biết chẳng nên chấp, hành thức danh-sắc lục-xứ thọ ái thủ hữu sanh lão tử sầu thán khổ ưu não nên biết chẳng nên chấp; danh vô minh nên biết chẳng nên chấp, danh hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não nên biết chẳng nên chấp.
Bốn tĩnh lự nên biết chẳng nên chấp, bốn vô lượng, bốn vô sắc định nên biết chẳng nên chấp; danh bốn tĩnh lự nên biết chẳng nên chấp, danh bốn vô lượng, bốn vô sắc định nên biết chẳng nên chấp.
Năm nhãn nên biết chẳng nên chấp, sáu thần thông nên biết chẳng nên chấp; danh năm nhãn nên biết chẳng nên chấp, danh sáu thần thông nên biết chẳng nên chấp.
Bố thí Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp, tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp; danh bố thí Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp, danh tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp.
Bốn niệm trụ nên biết chẳng nên chấp; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi nên biết chẳng nên chấp. Danh bốn niệm trụ nên biết chẳng nên chấp, danh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi nên biết chẳng nên chấp.
Phật mười lực nên biết chẳng nên chấp; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí nên biết chẳng nên chấp. Danh Phật mười lực nên biết chẳng nên chấp, danh bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí nên biết chẳng nên chấp.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa các Bồ tát Ma ha tát nên học như vầy: Bồ đề tâm nên biết chẳng nên chấp, danh Bồ đề tâm nên biết chẳng nên chấp. Vô đẳng đẳng tâm nên biết chẳng nên chấp, danh vô đẳng đẳng tâm nên biết chẳng nên chấp. Quảng đại tâm nên biết chẳng nên chấp, danh quảng đại tâm nên biết chẳng nên chấp. Vì sao thế? Là tâm này phi tâm, vì bản tánh tịnh vậy.
Lúc ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Tâm này vì sao bản tánh thanh tịnh? Thiện Hiện đáp: Bản tánh tâm này chẳng tương ưng với tham, mà chẳng phải tương ưng. Chẳng tương ưng với sân, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với si, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với triền kiết, tùy miên, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các kiến, thú, lậu, bộc lưu ách thủ thảy, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các tâm Thanh văn, Ðộc giác thảy, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Xá Lợi Tử! Tâm này bản tánh thanh tịnh như thế!
Xá Lợi Tử! Tâm này là hữu tâm phi tâm tánh chăng? Thiện Hiện đáp: Chẳng phải. Hỏi: Trong phi tâm tánh hữu tánh vô tánh là khá được chăng? Xá Lợi tử nói: Chẳng phải vậy, thưa Ngài! Thiện Hiện đáp: Trong phi tâm tánh hữu tánh vô tánh đã chẳng khá được, làm sao nói được tâm này là hữu tâm phi tâm tánh chăng!
Xá Lợi Tử hỏi: Những gì gọi là tâm phi tâm tánh? Thiện Hiện đáp: Ðối tất cả pháp không biến khác, không phân biệt, đấy gọi tâm phi tâm tánh. Xá Lợi Tử hỏi rằng: Như tâm không biến khác, không phân biệt; sắc cũng không biến khác, không phân biệt ư? Thiện Hiện đáp rằng: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thọ tưởng hành thức cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhãn xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; sắc xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thanh hương vị xúc pháp xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thân giới, xúc giới, thân thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; địa giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thủy hỏa phong không thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; khổ thánh đế cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tập diệt đạo thánh đế cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; vô minh cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lảo tử sầu thán khổ ưu não cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn tĩnh lự cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn vô lượng, bốn vô sắc định cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; năm nhãn cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; sáu thần thông cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bố thí Ba la mật đa cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn niệm trụ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; Phật mười lực cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện rằng: Hay thay! Hay thay! Thật như lời đã nói. Ngài là chơn Phật tử, từ tâm Phật sanh, từ miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh và từ pháp hóa sanh, nhận phần Phật pháp, chẳng nhận phần của cải; đối trong các pháp, thân tự làm chứng, huệ nhãn hiện thấy mới năng khởi nói. Ðức Thế Tôn nói Ngài với trong chúng Thanh văn an trụ định Vô tránh rất là đệ nhất, như lời Phật đã nói, chơn thật chẳng hư.
Thiện Hiện! Ðối Bát nhã Ba la mật đa, Bồ tát Ma ha tát nên như vậy mà học. Ðối Bát nhã Ba la mật đa, nếu Bồ tát Ma ha tát năng học được như vậy, phải biết đã trụ bậc Bất thối chuyển, chẳng rời Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Kẻ muốn học bậc Thanh Văn, nên cần siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Kẻ muốn học bậc Ðộc giác, nên cần siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Kẻ muốn học bậc Bồ tát, nên cần siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Và kẻ muốn học bậc Như Lai, nên cần siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Vì sao thế? Vì trong Bát nhã Ba la mật đa như vầy, rộng thuyết khai thị pháp Tam thừa vậy. Nếu Bồ tát Ma ha tát học Bát nhã Ba la mật đa, thời là học khắp Tam thừa, cũng ở trong pháp Tam thừa đều được khéo léo.
VÔ TRỤ
Thứ 9 - 1
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Ðối Bồ tát Ma ha tát và với Bát nhã Ba la mật đa, tôi đều bất đắc bất kiến, làm sao khiến tôi đem pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát! Bạch Thế Tôn! Tôi đối các pháp bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, nếu đem pháp này dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát, hoặc sẽ có ăn năn. Bạch Thế Tôn! Tôi đối các pháp bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được: Ðây là Bồ tát Ma ha tát, đây là Bát nhã Ba la mật đa! Bạch Thế Tôn! Danh Bồ tát Ma ha tát này và danh Bát nhã Ba la mật đa đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là hai danh nghĩa này vì đã vô sở hữu, vậy nên hai danh này đềy vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Bạch Thế Tôn! Tôi đối sắc thọ tưởng hành thức bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là sắc, cho đến đây là thức? Bạch Thế Tôn! Danh sắc thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa sắc thảy vì đã vô sở hữu, vậy nên danh sắc thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là nhãn xứ, cho đến ý xứ? Bạch Thế Tôn! Danh nhãn xứ thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa nhãn xứ thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh nhãn xứ thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối sắc thanh hương vị xúc pháp xứ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là sắc xứ, cho đến đây là pháp xứ? Bạch Thế Tôn! Danh sắc xứ thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa sắc xứ thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh sắc xứ thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là nhãn giới, cho đến đây là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh nhãn giới thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa nhãn giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh nhãn giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là nhĩ giới, cho đến đây là nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh nhĩ giới thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa nhĩ giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh nhĩ giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là tỷ giới, cho đến đây là tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh tỷ giới thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa tỷ giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh tỷ giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là thiệt giới, cho đến đây là thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh thiệt giới thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa thiệt giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh thiệt giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối thân giới, xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là thân giới, cho đến đây là thân xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh thân giới thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa thân giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh thân giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là ý giới, cho đến đây là ý xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh ý giới thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa ý giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh ý giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối địa thủy hỏa phong không thức giới bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là địa giới, cho đến đây là thức giới? Bạch Thế Tôn! Danh địa giới thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa địa giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh địa giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối khổ tập diệt đạo thánh đế bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là khổ thánh đế, cho đến đây là đạo thánh đế? Bạch Thế Tôn! Danh khổ thánh đế thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa khổ thánh đế thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh khổ thánh đế thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là vô minh, cho đến đây là lão tử sầu thán khổ ưu não? Bạch Thế Tôn! Danh vô minh thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa vô minh thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh vô minh thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Bạch Thế Tôn! Tôi đối vô minh diệt, cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não diệt bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là vô minh diệt, cho đến đây là lão tử sầu thán khổ ưu não diệt? Bạch Thế Tôn! Danh vô minh diệt thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa vô minh diệt thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh vô minh diệt thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối tham, sân, si, triền kiết, tùy miên, kiến thủ, bất thiện căn thảy bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là tham thảy, cho đến đây là bất thiện thảy? Bạch Thế Tôn! Danh tham thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa tham thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh tham thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là bốn tĩnh lự, cho đến đây là bốn vô sắc định? Bạch Thế Tôn! Danh bốn tĩnh lự thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa bốn tĩnh lự thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh bốn tĩnh lự thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.