Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 3-54

date
12/11/2020

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998

--- o0o ---

Tập 3

 

Quyển Thứ 54

 

Hội Thứ Nhất

Phẩm Biện Đại Thừa

Thứ 15 – 4

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ ngũ Cực nan thắng địa, nên xa lìa mười pháp. Những gì là mười? Một là nên xa lìa cư gia. Hai là nên xa lìa nữ tu sĩ. Ba là nên xa lìa nhà tham lam. Bốn là nên xa lìa chúng hội cãi hờn. Năm là nên xa lìa khen mình chê người. Sáu là nên xa lìa mười đạo bất thiện nghiệp. Bảy là nên xa lìa tăng thượng mạn ngạo. Tám là nên xa lìa điên đảo. Chín là nên xa lìa do dự. Mười là nên xa lìa tham sân si. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát trụ đệ ngũ Cực nan thắng địa, nên thường xa lìa mười pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ lục Hiện tiền địa, nên viên mãn sáu pháp. Những gì là sáu? Một là nên viên mãn bố thí Ba la mật đa. Hai là nên viên mãn tịnh giới Ba la mật đa. Ba là nên viên mãn an nhẫn Ba la mật đa. Bốn là nên viên mãn tinh tiến Ba la mật đa. Năm là nên viên mãn tĩnh lự Ba la mật đa. Sáu là nên viên mãn bát nhã Ba la mật đa. Lại nên xa lìa sáu pháp. Những gì là sáu? Một là nên xa lìa tâm Thanh văn. Hai là nên xa lìa tâm Độc giác. Ba là nên xa lìa tâm nóng nảy. Bốn là thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng nhàm nhãn. Năm là xả vật sở hữu tâm không buồn ăn năn. Sáu là đối với kẻ đến cầu trọn chẳng dối gạt. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ lục Hiện tiền địa, nên viên mãn sáu pháp như thế và nên xa lìa sáu pháp như vậy nữa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ thất Viễn hành địa, nên xa lìa hai mươi pháp. Những gì là hai mươi? Một là nên xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp tri giả, chấp kiến giả. Hai là nên xa lìa chấp đoạn. Ba là nên xa lìa chấp thường. Bốn là nên xa lìa chấp tướng. Năm là nên xa lìa chấp nhân thảy kiến. Sáu là nên xa lìa chấp danh sắc. Bảy là nên xa lìa chấp uẩn. Tám là nên xa lìa chấp xứ. Chín là nên xa lìa chấp giới. Mười là nên xa lìa chấp đế. Mười một nên xa lìa chấp duyên khởi. Mười hai nên xa lìa chấp ở đắm ba cõi. Mười ba nên xa lìa chấp tất cả pháp. Mười bốn nên xa lìa chấp đối tất cả pháp như lý bất như lý. Mười lăm nên xa lìa chấp y Phật thấy. Mười sáu nên xa lìa chấp y Pháp thấy. Mười bảy nên xa lìa chấp y Tăng thấy. Mười tám nên xa lìa chấp y giới thấy. Mười chín nên xa lìa sợ hãi không-pháp. Hai mươi nên xa lìa trái chống không-tánh. Lại nên viên mãn hai mươi pháp nữa. Những gì là hai mươi? Một là nên viên mãn thông đạt không. Hai là nên viên mãn chứng vô tướng. Ba là nên viên mãn biết vô nguyện. Bốn là nên viên mãn ba luân thanh tịnh. Năm là nên viên mãn thương xót hữu tình và đối hữu tình không bị chấp đắm. Sáu là nên viên mãn thấy tất cả pháp bình đẳng và với trong ấy không bị chấp đắm. Bảy là nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng và với trong ấy không bị chấp đắm. Tám là nên viên mãn thông đạt chơn thật lý thú và với trong ấy không bị chấp đắm. Chín là nên viên mãn trí vô sanh nhẫn. Mười là nên viên mãn thuyết tất cả pháp nhất tướng lý thú. Mười một nên viên mãn diệt trừ phân biệt. Mười hai nên viên mãn xa lìa các tưởng. Mười ba nên viên mãn xa lìa các kiến. Mười bốn nên viên mãn xa lìa phiền não. Mười lăm nên viên mãn xa ma tha, tỳ bát xá na địa. Mười sáu nên viên mãn điều phục tâm tánh. Mười bảy nên viên mãn vắng lặng tâm tánh. Mười tám nên viên mãn vô ngại trí tánh. Mười chín nên viên mãn không bị ái nhiễm. Hai mươi nên viên mãn tùy tâm sở dục qua đến cõi các Đức Phật, đối với Phật chúng hội tự hiện ra thân. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ thất Viễn hành địa, nên xa lìa hai mươi pháp như thế và nên viên mãn hai mươi pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ bát Bất động địa, nên viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn? Một là nên viên mãn ngộ vào tâm hành tất cả hữu tình. Hai là nên viên mãn du hý các thần thông. Ba là nên viên mãn thấy các cõi Phật, như chỗ đã thấy mà tự nghiêm tịnh các kiểu cõi Phật. Bốn là nên viên mãn cúng dường thừa sự các Đức Phật Thế Tôn, đối thân Như Lai như thật xem xét. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ bát Bất động địa, nên viên mãn bốn pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ cửu Thiện huệ địa, nên viên mãn bốn pháp. Những gì là bốn? Một là nên viên mãn trí căn thắng liệt. Hai là nên viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật. Ba là nên viên mãn như huyễn đẳng trì hằng vào các định. Bốn là nên viên mãn theo các hữu tình căn lành đã thục, nên vào các cõi tự hiện hóa sanh. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ cửu Thiện huệ địa, nên viên mãn bốn pháp như vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ thập Pháp vân địa, nên viên mãn mười hai pháp. Những gì là mười hai? Một là nên viên mãn nhiếp thọ đại nguyện vô biên xứ sở, tùy có sở nguyện đều khiến viên mãn. Hai là nên viên mãn âm trí tùy theo các loại trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược, a tố lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người, chẳng phải người thảy khác nhau. Ba là nên viên mãn trí vô ngại biện thuyết. Bốn là nên viên mãn vào thai đầy đủ. Năm là nên viên mãn xuất sanh đầy đủ. Sáu là nên viên mãn gia tộc đầy đủ. Bảy là nên viên mãn chủng tánh đầy đủ. Tám là nên viên mãn quyến thuộc đầy đủ. Chín là nên viên mãn sanh thân đầy đủ. Mười là nên viên mãn xuất gia đầy đủ. Mười một là nên viên mãn trang nghiêm cội Bồ đề đầy đủ. Mười hai là nên viên mãn tất cả công đức thành xong đầy đủ. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi trụ đệ thập Pháp vân địa, nên viên mãn mười hai pháp như vậy. Thiện Hiện! Phải biết đã viên mãn đệ thập Pháp vân địa, Bồ tát Ma ha tát cùng các Đức Như Lai nên nói là không khác.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị tịnh thắng ý lạc nghiệp? Phật nói: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí tu tập tất cả căn lành. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị tịnh thắng ý lạc nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị tất cả hữu tình bình đẳng tâm nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí dẫn phát từ bi hỷ xả, bốn món vô lượng. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị tất cả hữu tình bình đẳng tâm nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị bố thí nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả hữu tình không chỗ phân biệt mà tu bố thí. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị bố thí nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị thân cận thiện hữu nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát thấy các bạn lành khuyến hóa hữu tình, khiến nó tu tập Nhất thiết trí trí, liền bèn gần gũi cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen, thưa hỏi lãnh thọ chánh pháp, ngày đêm thừa phụng, không có lòng mỏi mệt. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị thân cận thiện hữu nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị cầu pháp nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, siêng cầu Như Lai Vô Thượng Chánh Đẳng pháp, chẳng rơi Thanh văn, bực Độc giác thảy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị cầu pháp nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị thường vui xuất gia nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tất cả chỗ sanh hằng nhàm cư gia là lao ngục, ồn ào phức tạp, thường vui Phật Pháp thanh tịnh xuất gia, không ai làm ngăn ngại được. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị thường vui xuất gia nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị ưa vui Phật thân nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xem thấy hình tượng Phật một chút rồi cho đến chứng được Vô thượng Bồ đề, trọn chẳng bỏ nơi tác ý nhớ Phật. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị ưa vui Phật thân nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị khai xiển pháp giáo nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát với Phật tại thế và sau khi Niết bàn, vì các hữu tình mở rộng pháp giáo, trước giữa sau đều lành, văn nghĩa khéo đẹp, thuần nhất viên mãn, thanh bạch, phạm hạnh. Chỗ gọi là: khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, duyên khởi, thí dụ, bổn sự, bổn sanh, phương quảng, hy pháp và luận nghĩa. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị khai xiển pháp giáo nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị phá kiêu mạn nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát thường lòng khiêm kính, đè tâm kiêu ngạo. Do đấy chẳng sanh về họ thấp dòng hèn. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị phá kiêu mạn nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tu trị hằng chắc chắn ngữ nghiệp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xứng với biết mà nói, nói và làm hợp nhau. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tu trị hằng chắc chắn ngữ nghiệp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát thanh tịnh cấm giới? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng khởi tác ý Thanh văn, Độc giác và các pháp phá giới, ngăn Bồ đề. Đấy là Bồ tát Ma ha tát thanh tịnh cấm giới.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát biết ơn trả ơn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hạnh Bồ tát, với được nhận ơn nhỏ hãy chẳng quên đền, huống là đại ân huệ lẽ đâu chẳng trao? Đấy là Bồ tát Ma ha tát biết ơn trả ơn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát trụ sức an nhẫn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát giả sử các hữu tình đến làm xâm hủy, mà đối với nó tuyệt không sanh lòng giận hại. Đấy là Bồ tát Ma ha tát trụ sức an nhẫn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát thọ thắng vui mừng? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát giáo hóa hữu tình đã được thành thục, thân tâm vui khoái, hưởng vui mừng hơn hết. Đấy là Bồ tát Ma ha tát thọ thắng vui mừng.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát chẳng bỏ hữu tình? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát cứu giúp hữu tình tâm hằng chẳng bỏ. Đấy là Bồ tát Ma ha tát chẳng bỏ hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát hằng khởi đại bi? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu Bồ tát hạnh tác lên nghĩ như vầy: "Ta vì nhiêu ích tất cả hữu tình, giả sử kiếp đều như hằng hà sa vô lượng vô số, ở đại địa ngục chịu các khổ dữ dội, hoặc thiêu hoặc nướng, hoặc chém hoặc dứt, hoặc đâm hoặc treo, hoặc xay hoặc giã, chịu những như thế vô lượng việc khổ. Vì muốn khiến nó cưỡi nơi xe Phật thừa mà vào Niết bàn". Tất cả cõi hữu tình như vậy hết xong, mà lòng đại bi từng không nhàm mỏi. Đấy là Bồ tát Ma ha tát hằng khởi đại bi.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát đối các Sư trưởng đem lòng kính tín, thưa hỏi vâng lời, cúng dường tưởng như thờ Phật? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát ?ì cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mới cung thuận Sư trưởng, đều không chỗ đoái. Đấy là Bồ tát Ma ha tát đối các Sư trưởng đem lòng kính tín, thưa hỏi vâng lời, cúng dường tưởng như thờ Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát siêng cầu tu tập Ba la mật đa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối các Ba la mật đa chuyên tâm cầu học, xa lìa mọi sự. Đấy là Bồ tát Ma ha tát siêng cầu tu tập Ba la mật đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát siêng cầu đa văn thường không nhàm đủ, với pháp đã nghe chẳng đắm văn tự? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát siêng phát tinh tiến, tác lên nghĩ nói: "Nếu cõi Phật đây hoặc cõi mười phương các Phật Thế Tôn, nói ra chánh pháp, ta đều nghe học, đọc tụng, thọ trì hết". Mà với trong ấy chẳng chấp văn tự. Đấy là Bồ tát Ma ha tát siêng cầu đa văn thường không nhàm đủ, với pháp đã nghe chẳng đắm văn tự.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát đem tâm vô nhiễm thường tu pháp thí, tuy rộng khai hóa mà chẳng tự cao? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp, hãy chẳng vì mình đem căn lành này hồi hướng Bồ đề, huống là cầu việc gì khác. Tuy khai hóa dẫn dắt nhiều mà chẳng tự cậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát đem tâm vô nhiễm thường tu pháp thí, tuy rộng khai hóa mà chẳng tự cao.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát vì trang nghiêm cõi tịnh trồng các căn lành, tuy dụng hồi hướng mà chẳng tự cử? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát dũng mãnh tinh tiến tu các căn lành, vì muốn trang nghiêm tịnh quốc các đức và vì thanh tịnh tâm độ mình và người, tuy làm việc ấy mà chẳng tự cao. Đấy là Bồ tát Ma ha tát vì trang nghiêm cõi tịnh, trồng các căn lành, tuy dụng hồi hướng mà chẳng tự cử.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát vì hóa hữu tình, tuy chẳng nhàm mỏi sanh tử vô biên mà chẳng tự cao? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì muốn thành thục tất cả hữu tình, trồng các căn lành, nghiêm tịnh cõi Phật, cho đến chưa mãn Nhất thiết trí trí, tuy chịu khó nhọc sanh tử vô biên mà không nhàm mỏi, cũng chẳng tự cao. Đấy là Bồ tát Ma ha tát vì hóa hữu tình, tuy chẳng nhàm mỏi sanh tử vô biên mà chẳng tự cao.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tuy trụ hổ trẽn mà không chỗ chấp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát chuyên cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề với việc tác ý các Thanh văn, Độc giác nhờ đủ hỗ trẽn, nên trọn chẳng chút khởi, mà với trong ấy cũng không chấp đắm. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tuy trụ hổ trẽn mà không chỗ chấp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tuy trụ chỗ vắng lặng thường chẳng bỏ lìa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, vượt khỏi các bậc Thanh văn, Độc giác thảy, nên thường chẳng bỏ rời chỗ vắng lặng. Đấy là Bồ tát Ma ha tát trụ chỗ vắng lặng thường chẳng bỏ lìa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát thiểu dục? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát hãy chẳng tự vì cầu Đại Bồ đề, huống là thế gian danh dự lợi dưỡng các việc. Đấy là Bồ tát Ma ha tát thiểu dục.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát vui đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát chuyên vì chứng cho kỳ được Nhất thiết trí trí, nên đối với mọi việc khác không bị chấp đắm. Đấy là Bồ tát Ma ha tát vui đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát thường chẳng bỏ lìa Đỗ đa công đức? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát thường đối pháp sâu sắc khởi trí nhẫn, quán sát kỹ lưỡng. Đấy là Bồ tát Ma ha tát thường chẳng bỏ lìa Đỗ đa công đức.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát đối các chỗ học chưa từng nới bỏ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối giới đã học giữ chắc chẳng dời, mà với trong ấy được chẳng lấy tướng. Đấy là Bồ tát Ma ha tát đối các chỗ học chưa từng nới bỏ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát đối các dục lạc rất sanh nhàm lìa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối diệu dục lạc chẳng khởi lòng muốn. Đấy là Bồ tát Ma ha tát đối các dục lạc rất sanh nhàm lìa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát hay thường phát khởi tịch diệt cùng tâm? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đạt tất cả pháp từng không có khởi tác. Đấy là Bồ tát Ma ha tát hay thường phát khởi tịch diệt cùng tâm.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát xả các vật sở hữu? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối pháp nội ngoại từng không có chổ lấy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát xả các vật sở hữu.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát tâm chẳng trệ chìm? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối các thức trụ chưa từng khởi tâm. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tâm chẳng trệ chìm.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát đối các vật sở hữu không chỗ cố luyến? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả vật không chỗ suy nghĩ. Đấy là Bồ tát Ma ha tát đối các vật sở hữu không chỗ cố luyến.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa cư gia? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát chí tánh ưa dạo cõi nước các Phật, tùy sanh chỗ nào thường vui xuất gia, cạo tóc bỏ râu, cầm bưng bình bát, mặc ba áo pháp hiện làm Sa môn. Đấy là Bồ tát Ma ha tát xa lìa cư gia.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa nữ tu sĩ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát thường nên xa lìa nữ tu sĩ, chẳng cùng ở chung như chừng gảy móng tay, cũng còn đối kia chẳng khởi dị tâm! Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa nữ tu sĩ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa nhà tham lam? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên suy nghĩ này: "Ta nên làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình trong đêm dài, khiến các hữu tình này nhờ tự phước lực, cảm được nhà thắng thí chủ như thế, cho nên đối ta trong ấy chẳng nên tham lam ganh ghét". Đấy là Bồ tát Ma ha tát xa lìa nhà tham lam.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chúng hội giận hờn cãi cọ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên suy nghĩ này: "Nếu ở nơi chúng hội, trong ấy hoặc có Thanh văn, Độc giác, hoặc nói thừa kia pháp yếu tương ưng khiến ta lui mất tâm Đại Bồ đề". Vậy nên quyết định phải xa lìa chúng hội. Lại tác lên nghĩ này nữa: "Những kẻ giận cãi hay khiến hữu tình phát sanh sân hại, gây nên nhiều nghiệp ác bất thiện, hãy trái với thiện thú huống là Đại Bồ Đề". Vậy nên quyết định phải xa lìa giận cãi. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chúng hội giận cãi.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa khen mình chê người? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối pháp nội ngoại đều không chỗ thấy, vậy nên phải xa lìa khen mình chê người. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa khen mình chê người.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa mười bất thiện nghiệp đạo? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên suy nghĩ này: "Mười ác pháp này hãy trở ngại thiện thú Nhị thừa thánh đạo, huống là Đại Bồ đề". Vậy nên phải xa lìa. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa mười bất thiện nghiệp đạo.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tăng thượng mạn ngạo? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng thấy có pháp đáng khởi khinh ngạo. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tăng thượng mạn ngạo.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa điên đảo? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán việc điên đảo đều chẳng khá được. Đấy là Bồ tát Ma ha tát xa lìa điên đảo.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa do dự? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán việc do dự đều chẳng khá được. Đấy là Bồ tát Ma ha tát xa lìa do dự.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tham sân si? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn chẳng thấy có việc tham sân si. Đấy là Bồ tát Ma ha tát xa lìa tham sân si.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn sáu Ba la mật đa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát viên mãn sáu pháp Ba la mật đa, vượt khỏi các bậc Thanh văn và Độc giác. Lại trụ sáu Ba la mật đa này, Phật và Nhị thừa năng qua khỏi năm bờ biển sở tri. Những gì là năm? Một là quá khứ, hai là vị lai, ba là hiện tại, bốn là vô vi, năm là bất khả thuyết. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn sáu Ba la mật đa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tâm Thanh văn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên nghĩ như vầy: "Tâm các Thanh văn chẳng phải chứng Vô thượng Đại Bồ đề". Vậy nên phải xa lìa. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tâm Thanh văn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tâm Độc giác? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên nghĩ như vầy: "Tâm các Độc giác nhất định chẳng thể được Nhất thiết trí trí, cho nên ta nay đây phải xa lìa đó". Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tâm Độc giác.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tâm nóng bức? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên nghĩ như vầy: "Tâm run sợ sanh tử nóng nảy chẳng phải chứng Vô thượng Chánh đẳng Giác đạo, vậy nên phải xa lìa". Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tâm nóng bức.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng nhàm nhăn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên nghĩ như vầy: "Tâm nhàm nhăn đây đối với Đại Bồ đề chẳng phải chứng được Đạo, nên ta nay đây quyết định phải xa lìa". Đấy là Bồ tát Ma ha tát thấy kẻ hành khất đến tâm chẳng nhàm nhăn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát bỏ vật sở hữu, không buồn ăn năn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên nghĩ như vầy: "Tâm buồn ăn năn này đối với chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề nhất định là chướng ngại nên ta phải bỏ". Đấy là Bồ tát Ma ha tát bỏ vật sở hữu, tâm không buồn ăn năn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát đối kẻ đến cầu, trọn chẳng kiêu dối? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tác lên nghĩ như vầy: "Tâm kiêu dối đây nhất định chẳng phải đạo A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề". Vì cớ sao? Vì Bồ tát Ma ha tát khi ban sơ phát tâm Vô thượng Bồ đề, đã tác lên lời thề này: "Hễ ta có tu thí gì, với kẻ đến cầu tùy lòng muốn, chẳng trống không". Vậy thì ngày nay sao mà kiêu dối kẻ kia. Đấy là Bồ tát Ma ha tát đối kẻ đến cầu, trọn chẳng kiêu dối.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp tri giả, chấp kiến giả? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán ngã, hữu tình cho đến tri giả, kiến giả, vì rốt ráo bất khả đắc vậy". Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp ngã, chấp hữu tình cho đến chấp tri giả, chấp kiến giả.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp đoạn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tất cả pháp rốt ráo chẳng sanh, vì không có nghĩa đoạn vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp đoạn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp thường? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tất cả pháp vì không có tánh thường vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp thường.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tưởng tướng? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh tạp nhiễm vì bất khả đắc vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa tưởng tướng.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nhân thảy kiến? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì đều chẳng thấy có tánh các kiến vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nhân thảy kiến.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp danh sắc? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh danh sắc đều bất khả đắc vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp danh sắc.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp uẩn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh năm uẩn đều bất khả đắc. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp uẩn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp xứ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh mười hai xứ đều bất khả đắc. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp xứ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp giới? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh mười tám giới thảy đều bất khả đắc. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp giới.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp đế? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh các đế đều bất khả đắc. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp đế.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp duyên khởi? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh các duyên khởi đều bất khả đắc vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp duyên khởi.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp trụ ở ba cõi? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh ba cõi đều bất khả đắc. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp trụ ở ba cõi.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp tất cả pháp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh các pháp đều như hư không, đều bất khả đắc. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp tất cả pháp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp đối tất cả pháp như lý bất như lý? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tánh các pháp đều bất khả đắc, không có tánh như lý bất như lý. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp đối tất cả pháp như lý bất như lý.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nương Phật thấy? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát biết chấp nương Phật thấy chẳng đặng thấy Phật vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nương Phật thấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nương Pháp thấy? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đạt tánh chơn pháp chẳng thể thấy được vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nương Pháp thấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nương Tăng thấy? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát biết chúng hòa hợp vô tướng vô vi chẳng thể thấy được vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nương Tăng thấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nương giới thấy? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát biết tánh tội phước đều chẳng phải có vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa chấp nương giới thấy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa run sợ không pháp? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán các không-pháp đều vô tự tánh, việc bị run sợ rốt ráo chẳng có. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa run sợ không-pháp.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa trái chống không-tánh? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát quán tất cả pháp tự tánh đều không, chẳng phải không cùng không có trái chống vậy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên xa lìa trái chống không tánh.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thông đạt không? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đạt tất cả pháp tự tướng đều không. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thông đạt không.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn chứng vô tướng? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát chẳng suy nghĩ tướng tất cả. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn chứng vô tướng.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn biết vô nguyện? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối pháp ba cõi tâm không chỗ trụ. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn biết vô nguyện.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn ba luân thanh tịnh? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát thanh tịnh đầy đủ mười thiện nghiệp đạo. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn ba luân thanh tịnh.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thương xót hữu tình và đối hữu tình không bị chấp đắm? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đã được đại bi và cõi tịnh độ trang nghiêm. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thương xót hữu tình và đối hữu tình không bị chấp đắm.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thấy tất cả pháp bình đẳng và với trong ấy không bị chấp trước? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp chẳng thêm chẳng bớt và với trong ấy không lấy không trụ. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thấy tất cả pháp bình đẳng và với trong ấy không bị chấp trước.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng và trong ấy không bị chấp đắm? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối các hữu tình chẳng thêm chẳng bớt và với trong ấy không lấy không trụ. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thấy tất cả hữu tình bình đẳng và với trong ấy không bị chấp đắm.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thông đạt chơn thật lý thú và đối trong ấy không bị chấp đắm? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp chơn thật lý thú, tuy như thật thông mà không chỗ thông đạt và với trong ấy không lấy không trụ. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thông đạt chơn thật lý thú và với trong ấy không bị chấp đắm.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn trí vô sanh nhẫn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát nhẫn tất cả pháp vô sanh vô diệt, không chỗ tạo tác và biết danh sắc rốt ráo bất sanh. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn trí vô sanh nhẫn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thuyết tất cả pháp nhất tướng lý thú? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp hành tướng bất nhị. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thuyết tất cả pháp nhất tướng lý thú.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn diệt trừ phân biệt? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp chẳng khởi phân biệt. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn diệt trừ phân biệt.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xa lìa các tưởng? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa tất cả tưởng nhỏ lớn vô lượng. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xa lìa các tưởng.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xa lìa các kiến? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát xa lìa tất cả thấy của Thanh văn, Độc giác thảy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xa lìa các kiến.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xa lìa phiền não? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát vứt bỏ tất cả hữu lậu, phiền não tập khí nối nhau. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xa lìa phiền não.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xa ma tha, tỳ bát xá na địa? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xa ma tha, tỳ bát xá na địa.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn điều phục tâm tánh? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối pháp ba cõi chẳng vui chẳng động. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn điều phục tâm tánh.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tâm tánh vắng lặng? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khéo nhiếp sáu căn. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tâm tánh vắng lặng.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tánh vô ngại trí? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu được Phật nhãn. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tánh vô ngại trí.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn vô sở ái nhiễm? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đối sáu chỗ bên ngoài năng khéo nới bỏ được. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn vô sở ái nhiễm.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tùy lòng chỗ muốn đến cõi các Phật, ở trong chúng hội Phật ấy tự hiện ra thân? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu thắng thần thông, từ một nước Phật đến một nước Phật cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Đức Phật Thế Tôn, mời quay xe pháp, nhiêu ích cho tất cả. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tùy lòng chỗ muốn đến cõi các Phật, ở trong chúng hội Phật ấy tự hiện ra thân.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn ngộ vào tâm hành tất cả hữu tình? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát dùng trí nhất tâm, như thật biết khắp pháp tâm và tâm sở của tất cả hữu tình. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn ngộ vào tâm hành tất cả hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên du hý các thần thông? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát du hý các phép thần thông tự tại, vì để thấy Phật nên từ một nước Phật đến một nước Phật, lại cũng chẳng sanh tưởng dạo xem nước Phật. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn du hý các thần thông.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thấy các cõi Phật, như chỗ đã thấy mà tự nghiêm tịnh các kiểu cõi Phật? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát trụ ở một cõi Phật, năng thấy được nước Phật mười phương vô biên, cũng năng thị hiện mà từng chẳng sanh tưởng Phật quốc độ. Lại vì để thành thục các hữu tình, nên hiện ra ngự ngôi vua Chuyển luân nơi Tam thiên đại thiên thế giới mà tự trang nghiêm, cũng năng nới bỏ mà không chấp giữ. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thấy các cõi Phật, như chỗ đã thấy mà tự nghiêm tịnh các kiểu cõi Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn cúng dường thừa sự chư Phật Thế Tôn, đối thân Như Lai như thật quan sát? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì muốn nhiêu ích các hữu tình, nên đối với pháp nghĩa thú như thật phân biệt. Như thế gọi là đem pháp cúng dường thừa sự chư Phật, lại phải quan sát kỹ càng pháp thân các Đức Phật. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn cúng dường thừa sự chư Phật Thế Tôn. Đối thân Như Lai như thật quan sát.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn trí biết căn thắng liệt của các hữu tình? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát trụ Phật mười lực, như thật rõ biết các căn thắng liệt tất cả hữu tình. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn trí biết căn thắng liệt của các hữu tình.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện, nghiêm tịnh tâm hành tất cả hữu tình. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn nghiêm tịnh cõi Phật.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn như huyễn đẳng trì hằng vào các định? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát trụ đẳng trì này, tuy năng thành xong tất cả sự nghiệp mà tâm chẳng động. Lại tu đẳng trì cực thành thục nên chẳng tác lên gia hạnh mà thường hằng hiện tiền. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn như huyễn đẳng trì hằng vào các định.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tùy căn lành các hữu tình đã thành thục, cố ý vào các cõi tự hiện hóa sanh? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát vì muốn thành thục căn lành thù thắng các loại hữu tình, tùy kia chỗ sở nghi nên vào các cõi mà hiện thọ sanh. Đấy là Bồ tát Ma ha tát tùy căn lành các hữu tình đã thành thục, cố ý vào các cõi tự hiện hóa sanh.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn nhiếp thọ vô biên xứ sở đại nguyện, tùy có chỗ sở nguyện đều khiến cho viên mãn? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đã tu đủ sáu Ba la mật đa cực viên mãn rồi, hoặc vì để nghiêm tịnh các cõi nước Phật, hoặc vì để thành thục các loại hữu tình, tùy tâm sở nguyện đều được viên mãn. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn nhiếp thọ vô biên xứ sở đại nguyện, tùy có chỗ sở nguyện đều khiến cho viên mãn.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn âm trí tùy theo các loại trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược, a tố lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người, chẳng phải người thảy các loại khác nhau. Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu tập từ vô ngại giải cho được thù thắng, khéo giỏi biết tiếng nói sai khác các loại hữu tình. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn âm trí tùy theo các loài trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược, a tố lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người, chẳng phải người thảy khác nhau.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thuyết trí vô ngại biện? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu tập cho được thù thắng biện vô ngại giải, vì các hữu tình có thể thuyết ra vô tận. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn thuyết trí vô ngại biện.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn vào thai đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tùy tất cả chỗ sanh, thật hằng hóa sanh, mà vì nhiêu ích các hữu tình hiện vào thai tạng, ở trong ấy đầy đủ các điều thắng sự. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn vào thai đầy đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xuất sanh đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát với khi xuất thai, thị hiện nhiều điều hiếm có, những việc thù thắng để cho các hữu tình xem thấy vui mừng, được đại lợi vui. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xuất sanh đầy đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn gia tộc đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát hoặc sanh nhà Sát đế lợi đại tộc tánh, hoặc sanh nhà Bà la môn đại tộc tánh, chỗ bẩm thọ cha mẹ không nên chê hiềm. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn gia tộc đầy đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn chủng tánh đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát thường dự chủng tánh các Đại Bồ tát đời quá khứ, với trong ấy thọ sanh. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn chủng tánh đầy đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn quyến thuộc đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát dùng thuần vô lượng vô số Bồ tát mà làm quyến thuộc, chẳng tạp nạp các loại. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn quyến thuộc đầy đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn sanh thân đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi mới sanh ra thân tướng đầy đủ, tất cả tướng tốt phóng đại quang minh, soi khắp vô biên thế giới các Đức Phật, cũng khiến cõi kia sáu điệu biến động. Hữu tình nào gặp được, không một chẳng nhiêu ích. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn sanh thân đầy đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xuất gia đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đang khi xuất gia, vô lượng vô số trời, rồng, dược xoa, người, chẳng phải người phò theo giúp rập. Đi đến đạo tràng cạo bỏ râu tóc, mặc ba áo pháp, nhận cầm bình bát. Dẫn đem vô lượng vô số hữu tình cho cưỡi xe Tam thừa mà thẳng đến viên tịch. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn xuất gia đầy đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn trang nghiêm cội Bồ đề đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát căn lành thù thắng, nguyện lực rộng lớn, mới cảm được cội Bồ đề đẹp như thế này: Lấy ngọc phệ lưu ly mà làm thân cây, chơn kim làm cọng gốc, nhánh, lá, hoa, trái, đều dùng bảy thứ báu thượng diệu làm thành. Cội này cao rộng che khắp Tam thiên đại thiên cõi Phật. A?h hào quang soi rực quanh khắp mười phương thế giới các Đức Phật hằng hà sa thảy. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn trang nghiêm cội Bồ đề đầy đủ.

Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tất cả công đức đầy đủ? Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát đầy đủ tư lương phước huệ thù thắng, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Đấy là Bồ tát Ma ha tát nên viên mãn tất cả công đức đầy đủ.

TIN KHÁC