Chùa Hải Đức – Khánh Hòa

date
06/10/2020
Khác với sự đồ sộ của những tượng Phật lớn thì chùa Hải Đức được biết đến là ngôi chùa thanh tịnh, đã tồn tại lâu năm và có lối kiến trúc cũ. Tọa lạc trên một con dốc dài thuộc đường Hải Đức, phường Phương Sơn. Đi hết con dốc là một con đường khá bằng phẳng để dẫn vào chùa. Chùa này cũng chính là Phật Học viện lớn nhất tại miền Trung.

Chuyện xưa kể rằng cuối triều Tự Đức, vào khoảng năm 1883, lúc thành phố Nha Trang mới chỉ là một làng chài ven biển, Ngài Viên Giác Thiền sư đã dựng lên một thảo am lấy tên là Duyên Sanh Tự. Công đức giáo hóa của Ngài đã quy tụ được nhiều dân làng đến xin thọ giới quy y. Cảnh tấp nập rộn của thiện nam tín nữ hằng ngày đến lễ bái cùng “những ngày sóc ngày vọng, các hàng tăng giới và cư sĩ lại thường hội họp để bàn về Phật sự khiến dân làng mới đặt cho thảo am Ngài ở một cái tên rất đại chúng là chùa Hội để diễn tả cảnh tụ tập đông đảo nơi chùa.” Do con đường này có hai ngôi chùa nằm gần nhau (chùa Hội Phước, tục gọi là Chùa Cát, và Chùa Hội) nên người Pháp đặt tên đường là “Rue des deux pagodes”, đường Hai Chùa.

Đường lên chùa có 2 ngã rẽ thang đá rất lạ

Đến năm Thành Thái thứ 3 (1891), chùa được mở rộng qui mô, trở thành một tu viện trang nghiêm thời bấy giờ. Nhân dịp đại trùng tu này, do chùa đóng trên địa bàn của làng Phước Hải và nhận thấy dân chúng trong làng ăn ở hiền đức, Ngài Viên Giác bèn hợp hai chữ cuối lại để đặt cho chùa một tên gọi mới: Hải Đức Tự.

Không gian tĩnh lặng nơi cửa Phật

Khi Ngài Viên Giác viên tịch, đệ tử của Ngài là Hòa thượng (HT) Phước Huệ (húy Ngộ Tánh, tục danh Nguyễn Hưng Long, quê ở Quảng Trị) vào kế vị.  HT Phước Huệ nguyên trú trì chùa Kim Quang ở Huế “Cho nên năm Khải Định thứ sáu (1921) Hòa thượng lại được triệu thỉnh về Huế để trụ trì chùa Kim Quang và làm Tăng Cang ở chùa Báo Quốc. Chùa Hải Đức phải giao cho đệ tử coi sóc. Thỉnh thoảng Hòa thượng mới vào thăm. Rồi tuổi già sức yếu, việc đi lại khó khăn, năm Bảo Đại thứ 14 (1938) [8], Hòa thượng bèn giao nhiệm vụ trú trì chùa Hải Đức cho Bích Không Đại sư. Bích Không Đại sư (pháp danh Trừng Đàn, tục danh Hoàng Hữu Đàng, quê quán Quảng Trị) xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Ngài đậu tú tài năm Mậu Ngọ (1918), đắc pháp năm Ất Hợi (1935) trong giới đàn chùa Sắc Tứ Tịnh Quang tỉnh Quảng Trị, nên cũng còn được gọi là Giác Phong Đại sư. Khi nhận lãnh chùa Hải Đức thì chùa đã quá cũ, lại thêm thành phố Nha Trang mỗi ngày lại thêm đông đúc, xe ngựa mỗi lúc thêm ồn ào, cảnh thiền môn khó giữ được không khí trang nghiêm thanh tịnh, đại sư, với sự đồng ý của HT Phước Huệ, bèn lo chọn một thắng địa thích hợp để dời chùa Hải Đức. Sau ba năm dấn bước khắp danh sơn thắng địa tỉnh Khánh Hòa, Đại sư mới tìm được nơi vừa hợp với cảnh tu tâm dưỡng tánh của các bậc xuất gia, vừa tiện cho việc độ tha của hạnh nguyện đại thừa. Đó là: Hòn Trại Thủy.”

Tên nghe sao mà lạ! Có nhiều tên gọi về hòn núi này và đặc biệt là mỗi tên gọi lại gắn với một thời kỳ lịch sử khác nhau. Tên cổ nhất của hòn Trại Thủy là Khố Sơn, tên dân gian là Hòn Kho vì thời Chúa Nguyễn có kho Phước Sơn ở phía Đông Nam của núi. Khi nhà Tây Sơn lên ngôi, đặt xưởng đóng tàu bè dưới chân núi, dân chúng gọi núi là Hòn Xưởng. Đến khi nhà Nguyễn lấy lại được Diên Khánh, đặt trại thủy quân gần bến Trường Cá (phường Phương Sài hiện nay), dân địa phương gọi núi là Trại Thủy cho đến bây giờ.

Chánh điện

Quanh núi có nhiều ngôi chùa, trong đó có ba chùa lớn là Hải Đức, Long Sơn và Linh Phong (Bửu Phong). Chùa Hải Đức nổi tiếng nhất trong giới tăng ni, Phật tử và dân chúng địa phương vì không những đó là Phật Học Viện lớn nhất miền Trung mà còn là một ngôi chùa có cảnh quang tuyệt đẹp.

Hồng Anh/Chuaviet.org (tổng hợp)