CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC
Nguyên tác : The Story of Philosophy - Will Durant
Trí Hải và Bửu Đích dịch
---o0o---
Chương 1 PLATON
1. BỐI CẢNH:
Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (tTL) đó là nơi khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một nền văn hoá phong phú. Về phía tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar, nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn vượt eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ như Thessaly, Epirus và Macédonie. Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam, những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà những chiến sĩ như Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và núi đồi trong đất liền, đâu đâu cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập bởi những chướng ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng tự phát triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của mình. Những quốc gia như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v.
Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó là một tiểu quốc nằm về phía cực đông của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ để Hy lạp thu nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng mạnh. Vào khoảng năm 490 trước Tây lịch, hai tiểu quốc Sparte và Athènes quên mối hận thù để hợp lực cùng nhau đánh đuổi quân xâm lăng Ba Tư lăm le biến Hy lạp thành một thuộc địa của mình. Trong cuộc chiến tranh này, Sparte cung cấp lục quân và Athènes cung cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh chấm dứt, Sparte giải ngũ quân đội và chịu sự khủng hoảng kinh tế do sự giải ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì Athènes khôn ngoan hơn, biến hạm đội tàu chiến thành một hạm đội tàu buôn và trở nên một nước buôn bán giàu mạnh nhất thời thượng cổ. Sparte điêu tàn trong nghề canh nông và bị cô lập với thế giới bên ngoài, trong khi Athènes trở nên thịnh vượng và là một nơi giao điểm của nhiều chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, văn hoá, sự chung đụng nảy sinh sự so sánh, phân tích và suy nghiệm.
Những truyền thống, lý thuyết gặp gỡ nhau, chống đối nhau, tự đào thải nhau và được cô đọng lại. Trong khi có hàng ngàn tư tưởng chống đối nhau, người ta có khuynh hướng hoài nghi tất cả những tư tưởng ấy. Có lẽ những thương gia là những người nhiều hoài nghi nhất vì họ thấy quá nhiều, bị tuyên truyền quá nhiều, họ có khuynh hướng coi người khác nếu không phải là những người ngu thì cũng là những người lưu manh, họ hoài nghi tất cả những nguồn tư tưởng. Theo với thời gian họ phát triển khoa học; toán học nảy sinh nhờ sự giao hoán, thiên văn học nảy sinh với nhu cầu hàng hải. Với sự phát triển nền kinh tế, con người có nhiều thì giờ nhàn rỗi, được hưởng nhiều tiện nghi trong một không khí trật tự và an ninh. Đó là những điều kiện tiên quyết để nghiên cứu và suy tư. Người ta nhìn vào các ngôi sao trên trời không những để tìm phương hướng cho chiếc tàu đang lênh đênh trên mặt biển mà còn để tìm bí mật của vũ trụ: những triết gia Ha lạp đầu tiên là những nhà thiên văn. Aristote nói rằng sau khi thắng cuộc chiến tranh, các người Hy lạp tìm cách phát huy chiến quả và mở rộng nỗ lực vào nhiều lãnh vực khác. Người ta cố tìm những lời giải đáp cho những bài toán trước kia được giao phó cho các thần linh quản trị, những tế lễ tà thuyết nhường bước cho khoa học, triết lý bắt đầu từ đó.
Khởi đầu triết lý là một môn học có tính cách vật lý, người ta quan sát thế giới hữu hình với hy vọng tìm thấy yếu tố khởi thuỷ của tất cả vạn vật. Một lối giải đáp tự nhiên là thuyết duy vật của Démocrite (460 - 360 tTL). Démocrite nói rằng: "trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không", đó là nguồn tư tưởng chính của Hy lạp, người ta lãng quên nó trong một thời gian nhưng nó lại được sống dậy với tư tưởng của Epicure (342-279 tTL) và Lucrèce (98-55 tTL). Tuy nhiên khía cạnh quan trọng nhất và đặc sắc nhất của nền triết học Hy lạp được thể hiện trong tư tưởng của những nguỵ luận gia đó là những người đi lang thang rày đây mai đó để tuyên truyền cho chủ nghĩa của mình, họ gắn bó với tư tưởng của mình hơn tất cả mọi vật trên đời. Phần đông họ là những người rất thông minh hoặc rất thâm thuý, họ bàn cãi về tất cả những vấn đề mà người đương thời thắc mắc, họ đặt câu hỏi cho tất cả các vấn đề, họ không sợ đụng chạm đến các tôn giáo hoặc các tư tưởng chính trị của các vua chúa, họ mạnh dạn chỉ trích tất cả các định chế xã hội hoặc lý thuyết chính trị trước công luận. Về mặt chính trị họ được chia làm hai phái. Một phái giống như Rousseau cho rằng thiên nhiên là tốt, văn minh xã hội là xấu, trong thiên nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng và con người trở nên bất bình đẳng với các định chế xã hội, luật lệ là những phát minh của những kẻ mạnh để trói buộc và thống trị kẻ yếu. Một nhóm khác giống như Nietzsche cho rằng thiên nhiên vượt ra ngoài phạm vi của cái xấu và cái tốt, trong thiên nhiên con người đã mất bình đẳng, luân lý là một phát minh của kẻ yếu để giới hạn và doạ nạt kẻ mạnh, sức mạnh là nền đạo đức tối thượng và sự ao ước tối thượng của con người, và chế độ chính trị cao đẹp nhất hợp thiên nhiên nhất là chế độ quý tộc.
Sự tấn công tư tưởng dân chủ là phản ảnh của sự thịnh vượng của một nhóm người giàu có ở Athènes họ tự lập một đảng gọi là lực lượng những người ưu tú. Đảng này chỉ trích tư tưởng dân chủ là vô hiệu lực. Thật ra cái dân chủ mà họ chỉ trích khác xa cái dân chủ mà chúng ta quan niệm ngày hôm nay. Trong số 400 ngàn dân của Athènes, đã có 250 ngàn thuộc vào hạng nô lệ bị tước đoạt tất cả quyền chính trị, trong số 150 ngàn người còn lại chỉ có một thiểu số được đại diện tại quốc hội để bàn cãi và quyết định về các vấn đề của quốc gia. Tuy nhiên cái nền dân chủ còn lại đó là một nền dân chủ có thể nói là hoàn hảo nhất từ xưa đến nay. Quốc hội có quyền tối thượng và là cơ quan tối cao của quốc gia, tối cao pháp viện gồm trên 1000 thẩm phán (để làm nản lòng những kẻ hối lộ), số thẩm phán này được tuyển chọn theo thứ tự ABC trong danh sách của toàn thể công dân. Không một chế độ chính trị nào dám thực hành tư tưởng dân chủ đi xa đến mức độ ấy.
Trong cuộc chiến tranh giữa Sparte và Athènes (430 - 400 tTL) lực lượng các người ưu tú của Athènes do Critias lãnh đạo, chủ trương nên bãi bỏ chế độ dân chủ vì cho đó là mầm mống của cuộc chiến bại và thành lập một chính thể giống như chính thể quý tộc của thành Sparte. Kết quả là nhiều lãnh tụ của lực lượng bị lưu đày. Sau khi chiến tranh chấm dứt với sự đầu hàng của Athènes, một trong các điều kiện đình chiến là phải đại xá cho những người trong lực lượng bị lưu đày. Những người này tôn Critias làm minh chủ và lăm le đảo chánh để thành lập một chính phủ của lực lượng ưu tú. Cuộc đảo chánh thất bại, Critias tử trận. Critias là môn đệ của Socrate và có họ hàng với Platon.
2. SOCRATE
Nếu chúng ta suy xét trong khi ngắm bức tượng bán thân của Socrate còn sót lại trải qua bao nhiêu điêu tàn hoang phế thì ta sẽ nhận thấy rằng Socrate có một diện mạo không đẹp đẽ gì. Một cái đầu hói, cái mặt lớn và tròn, một cặp mắt sâu và nhìn thẳng, lỗ mũi lớn ... Cái mặt đó làm ta liên tưởng đến một người gác cổng hơn là một triết gia danh tiếng vào bậc nhất. Nhưng nếu nhìn lại lần thứ hai ta sẽ thấy rằng, qua những nét khắc trong đá, một cái gì hoà nhã và bình dị thoát ra từ bộ mặt đó, những nét ấy đã làm cho Socrate được hầu hết các thanh niên thành Athènes kính mến. Ta biết rất ít về Socrate, nhưng đồng thời ta hiểu Socrate hơn triết gia có vẻ quý phái như Platon hoặc thông thái như Aristote. Sau hơn hai ngàn năm, ta còn mường tượng được hình dáng của Socrate với chiếc áo choàng thụng thịnh bước từng bước khoan thai trước các đền thờ, tâm tư hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi các biến cố chính trị. Ông tụ họp những thanh niên và những học giả xung quanh mình vào những nơi có bóng mát trước cửa các đền thờ để cùng nhau đàm đạo.
Những người đi theo Socrate thuộc rất nhiều thành phần khác nhau, chính những người này đã tạo nên nền triết lý tây phương. Có những người con nhà giàu như Platon và Alcibiade, họ thích lối chỉ trích chế độ dân chủ của Socrate, cũng có những kẻ về phe xã hội chủ nghĩa ưa thích nếp sống nghèo nàn của Socrate và cho đó là một dấu hiệu của sự thánh thiện, cũng có những kẻ chủ trương diệt trật tự như Aristippe, họ chủ trương một xã hội không có nô lệ cũng không có chủ nô lệ, tất cả đều sống tự do và không lo lắng như chính Socrate. Tất cả những vấn đề làm con người suy nghĩ và làm cho những thiếu niên bàn cãi suốt ngày đều được đem ra mổ xẻ trong cái nhóm nhỏ ấy, họ tin tưởng một cách thành thật rằng nếu cuộc đời mà không có bàn luận về triết lý thì đó là một cuộc đời không đáng sống. Trong nhóm nhỏ ấy hầu hết các nguồn tư tưởng của nhân loại đều được đại diện.
Socrate làm gì để sống ? Ít ai biết đến. Ông không bao giờ làm việc, không bao giờ nghĩ đến ngày mai. Ông ăn khi nào có người mời, có lẽ người ta rất thích mời ông vì xem ra ông cũng béo tốt phương phi như ai. Đối với vợ con thì ông ta không được hoan nghênh lắm. Theo Xanthippe, Socrate là một kẻ du thủ du thực chỉ đem về cho gia đình một ít tiếng tăm mà không bao giờ đem về tiền bạc hoặc lương thực. Xanthippe cũng thích đàm đạo như Socrate, những cuộc đàm đạo này, rũi thay, không được lưu truyền. Nhưng chúng ta biết rằng bà ta yêu Socrate và rất đau buồn trước cái chết của người bạn tinh thần.
Tại sao những môn đệ kính mến Socrate đến thế ? Có lẽ tại rằng Socrate là một người trước khi là một triết gia: ông đã khinh thường gian nguy để cứu Alcibiade trong vòng tên đạn khói lửa, ông có tửu lượng rất khá, không từ chối mà cũng không đi đến chỗ say sưa. Nhưng điều làm người ta yêu thích Socrate nhất có lẽ là sự khiêm nhượng của ông ta: ông không tự cho rằng mình hiểu triết lý, ông chỉ đi tìm triết lý, ông là người thích triết lý, không phải là triết gia nhà nghề. Một câu sấm tại đền Delphe cho biết rằng Socrate là người thông minh nhất của xứ Hy lạp. Socrate cho rằng câu sấm này ám chỉ đến thuyết bất tri của ông ta: "Tôi chỉ biết một điều, đó là tôi không biết gì hết". Triết lý bắt đầu khi người ta biết hoài nghi, nhất là hoài nghi những niềm tin của chính chúng ta. Biết đâu rằng chính những niềm hy vọng ao ước thầm kín, những khao khát đã trở thành những niềm tin đối với chúng ta ? Biết đâu rằng những tư tưởng có vẻ khách quan chỉ là những niềm ước vọng trá hình. Sẽ không có triết lý nếu chúng ta không chịu khó đi một vòng quanh và quan sát lại chính chúng ta: "Hãy tự biết mình !" Socrate nói thế.
Trước Socrate cũng đã có nhiều triết gia. Những người với lý luận đanh thép như Thalès và Héraclite, tế nhị như Parménide và Zénon, sâu sắc như Pythagore và Empedocle. Nhưng phần nhiều những người ấy là những triết gia hướng về vật lý, họ tìm bản thể của sự vật định lý và yếu tố của thế giới bên ngoài. Những nỗ lực ấy rất đáng khen, Socrate nói, nhưng có một điều vô cùng quý giá hơn những cây cỏ, sông núi, trăng sao, đó là con người. Con người là gì, và con người sẽ đi đến đâu ?
Rồi từ đó ông chuyên chú vào tâm hồn con người, tìm hiểu những định lý, hoài nghi những tư tưởng sẵn có. Người ta thường nói đến hai chữ công bằng, Socrate liền hỏi công bằng là gì ?
Anh hiểu gì về hai chữ ấy, tại sao anh dám đem hai chữ ấy để giải quyết vấn đề sống chết của đồng loại ? Danh dự là gì ? Đạo đức là gì ? Bản ngã của anh là gì ? Đó là những vấn đề đạo đức và tâm lý mà Socrate thường tự hỏi. Có những người lấy làm khó chịu về phương pháp của Socrate, một phương pháp đòi hỏi những định nghĩa chính xác, những tư tưởng minh bạch, những phân tích xác đáng. Họ cho rằng Socrate hỏi nhiều hơn trả lời và làm rối trí con người nhiều hơn sau khi đã thụ huấn với ông. Tuy nhiên Socrate đã để lại cho triết học hai câu trả lời minh bạch cho hai bài toán khó khăn nhất của chúng ta: Đạo đức là gì? Quốc gia tốt đẹp nhất là gì ?
Không một vấn đề nào thiết yếu hơn những vấn đề trên. Những nguỵ luận gia đã làm tan rã sự tin tưởng của đám thanh niên thành Athènes đối với các vị thần thánh và những điều khoản luân lý căn cứ vào sự thưởng phạt của các vị thần thánh, bây giờ không có lý do nào kềm giữ họ trong các hành vi của họ nếu không bị pháp luật ràng buộc. Một chủ nghĩa cá nhân lan tràn và làm suy yếu đức tính của người Athènes khiến cho nước này trở nên một món mồi ngon của liên bang Sparte. Về phương diện chính trị, thuyết dân chủ cực đoan đã làm say mê dân Athènes cũng đem đến nhiều điều bất tiện. Quá nhiều quyền hành đã được giao cho quốc hội, các cuộc bầu cử được tổ chức quá vội vàng, người có trách nhiệm như các tướng lãnh đã được tấn phong và cách chức một cách quá dễ dàng, sự chỉ định những nông phu, thương gia làm thẩm phán trong tối cao pháp viện theo thứ tự ABC là những yếu tố làm tan rã một nền hành chính và chính trị vững mạnh. Làm thế nào để thiết lập một nền đạo đức mới, làm thế nào để cứu vãn tình trạng suy đồi của quốc gia do các định chế dân chủ cực đoan gây nên ?
Chính vì trả lời cho các câu hỏi trên mà Socrate đã nhận lấy cái chết và đồng thời trở nên bất tử. Phái thủ cựu có lẽ sẽ thương tiếc ông ta nếu ông lên tiếng bênh vực lối thờ phượng đa thần của ngày xưa, nếu ông xúi giục các môn đệ của ông đến các nơi thờ phượng và dâng lễ cúng cho những đấng thần linh ngày trước. Trái lại, Socrate cho rằng làm như vậy tức là đi ngược với nền tiến triển của nhân loại, đó là một sự tiến tới diệt vong. Ông chủ trương rằng chỉ có một đấng tối cao mà thôi, nhưng ông lại cho rằng một nền đạo đức thực tiễn không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ, ta có thể tạo dựng một nền luân lý hoàn toàn không lệ thuộc thần học, hoàn toàn thích hợp với người có tôn giáo cũng như không có tôn giáo thì xã hội có thể được ổn định mà không cần đến thần học.
Nếu có ai nhận thức rằng con người tốt là con người thông minh, con người đức hạnh là con người khôn ngoan, nếu họ nhận thức được đâu là quyền lợi chính đáng, thấu triệt được luật nhân quả, kiểm soát được lòng ham muốn để khỏi cảnh hỗn độn tự diệt và đi đến một xã hội có kỷ cương, thì họ đã nắm được cái tinh hoa của nền luân lý, họ không cần dựa theo lời răn dạy của thần học hay những điều ngăn cấm khác.
Tất cả tội lỗi đều do vô minh mà ra. Người trí huệ cũng bị cám dỗ bởi tham sân si như người vô minh nhưng họ biết dùng trí huệ để chế ngự sự cám dỗ và không rơi vào vòng tội lỗi. Một xã hội sáng suốt là một xã hội trong đó người dân cảm thấy được hưởng quyền lợi thì nhiều, mà bị hạn chế tự do thí ít. Trong xã hội ấy, ăn ở ngay thẳng là giữ đúng quyền lợi mình và an ninh trật tự cũng như thiện chí trong xã hội đều phát xuất từ sự nhận định sáng suốt của cá nhân.
Nhưng nếu chính phủ là một sự hỗn độn và phi lý, nếu chính phủ cai trị mà không giúp đỡ, chỉ huy mà không lãnh đạo thì làm sao có thể thuyết phục người dân đồng hoá quyền lợi cá nhân với quyền lợi xã hội ? Alcibiade nổi loạn chính vì để chống một chính phủ lung lạc nhân tài và mị dân. Không suy nghĩ sáng suốt tất nhiên đi đến cảnh hỗn độn, đám đông quyết định trong hấp tấp và vô ý thức tất nhiên có ngày phải hối hận vì sai lầm. Ai có thể tin rằng đám đông có lẽ phải ? Sự thật thì đám đông luôn luôn ngông cuồng hơn, độc ác hơn những cá nhân hành động đơn độc. Để cho kẻ miệng lưỡi lung lạc quần chúng là một điều sỉ nhục, họ chỉ là những cái máy nói, mỗi khi vặn lên là thao thao bất tuyệt. Việc trị nước an dân là một việc tối quan trọng đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và suy xét. Xã hội chỉ có thể được cứu vãn và trở nên hùng mạnh nếu được lãnh đạo bởi những người khôn ngoan và sáng suốt nhất.
Các bạn thử tưởng tượng phản ứng của nhà cầm quyền Athènes khi nghe những lời trên đúng vào lúc phải giải quyết chiến tranh, đúng vào lúc một thiểu số trí thức và quí tộc đang âm mưu một cuộc đảo chánh. Các bạn hãy đặt mình vào địa vị của Anytus nhà lãnh đạo thành Athènes bị cậu con trai về nhà đổ lư hương vì cậu này là một môn đệ của Socrate.
Rồi cuộc nội chiến bùng nổ, phe trí thức và quý tộc choảng nhau hết mình với phe nhân dân. Cuối cùng phe nhân dân thắng. Biến cố này quyết định luôn cả số phận của Socrate : ông là nhà lãnh đạo tinh thần của phe nổi loạn, dù ông có yêu chuộng hoà bình đến mấy cũng mặc, chính ông đã chủ trương thuyết quý tộc cầm quyền, chính ông đã xúi giục đám thanh niên hội thảo. Anytus kết luận: Socrate cần phải chết.
Cái chết của Socrate được Platon kể lại trong một quyển sách bất hủ. Với những lời lẽ cảm động Platon suy tôn bậc Thầy đã hy sinh vì chân lý, vì tự do tư tưởng, thà chết chứ không chịu xin đám đông tha tội vì xưa nay Socrate vẫn khinh thường phán quyết của đám đông. Socrate bị xử phải uống thuốc độc. Môn đệ của ông tìm cách cứu ông một lần chót: những kẻ giữ ngục đồng ý nhận một món tiền hối lộ và làm ngơ cho Socrate trốn đi. Socrate từ chối. Ông đã bảy mươi tuổi, có lẽ ông nghĩ rằng có chết cũng vừa, vả lại đây cũng là một cơ hội tốt để mà chết. Với các môn đệ đến ngục thất để tiễn đưa Socrate về cõi chết, Socrate nói: Hãy cứ vui đi, các con chỉ chôn cái thể phách của thầy.
Nói xong ông đứng dậy và đi vào phòng tắm với Criton. Chúng tôi (theo Platon kể lại) ngồi đợi ở ngoài, lòng buồn vô hạn. Ông cũng như cha, bây giờ ông chết, chúng tôi không khác gì những kẻ mồ côi. Giờ mặt trời lặn đã gần kề. Khi ông trở ra, ông lại ngồi với chúng tôi, chuyện trò rất ít. Chằng bao lâu người giữ ngục đi vào, đến gần ông và nói như sau: - Ông thật là người cao quý nhất, hiền lành nhất trong đời. Chắc rằng ông không có ý nghĩ giận tôi giống như những kẻ thường chửi bới mắng nhiếc tôi khi tôi tuân lệnh trên, đem chén thuốc độc vào đây cho họ uống. Xin ông thông cảm, tôi với ông không thù hằn gì. Chúc ông can đảm chịu đựng. Nói xong người giữ ngục oà khóc và ôm mặt đi ra ngoài. Socrate trả lời như sau: - Tôi sẽ làm như lời ông nói và chúc ông mọi sự tốt lành. Quay về phía chúng tôi Socrate nói như sau: - Người đó rất tốt với thầy từ lúc thầy vào đây, y đến thăm hỏi luôn, bây giờ y thực tình mến tiếc, nhưng Criton ơi, hãy đem chén thuốc vào đây nếu thuốc đã chế xong. Nếu thuốc chưa chế xong, hãy nói người ta chế. Criton nói: - Thưa sư phụ, mặt trời còn trên đỉnh đồi. Nhiều kẻ đợi trời tối mới uống và trước khi uống họ được quyền ăn uống no say thoả thích. Xin sư phụ chớ gấp gáp, hãy còn thì giờ. Socrate nói: - Những kẻ ấy làm rất phải, vì họ có lợi trong sự chần chờ, nhưng ta thì không thấy có lợi gì khi uống chén thuốc độc chậm hơn một chút, đời của ta kể như đã hết. Hãy làm như ta đã nói và xin đừng từ chối. Criton ra dấu cho người giúp việc, người này đi ra một lúc rồi trở lại với người giữ ngục, tay cầm chén thuốc. Socrate nói: - Ông bạn là người thông thạo về vấn đề này, xin ông cho biết tôi phải làm thế nào? Người giữ ngục trả lời: - Uống xong ông nên đi dạo một lúc, khi nào cảm thấy nặng ở hai chân thì nằm xuống, thuốc sẽ ngấm dần lên đến tim. Nói xong hắn đưa chén thuốc cho Socrate. Socrate nhận lấy một cách vô cùng nhã nhặn, không chút sợ sệt hoặc thay đổi sắc mặt. - Trước khi uống, tôi cần dành một phần chén thuốc để dâng cúng thần linh không ? - Chúng tôi chế thuốc vừa đủ. - Tôi hiểu rồi, nhưng dù sao tôi cũng cầu nguyện thần linh phù hộ cho tôi trong cuộc hành trình sang thế giới bên kia. Nói xong Socrate cầm chén thuốc đưa lên môi và uống một cách vui vẻ.
Từ trước đến giờ chúng tôi cố nén sự đau buồn thương tiếc, nhưng khi thấy ông uống cạn chén thuốc, chúng tôi không còn cầm lòng được nữa. Nước mắt tôi tuôn trào, tôi ôm mặt khóc. Không phải tôi khóc ông, mà chính là tôi khóc tôi từ nay vĩnh biệt tôn sư. Criton khóc trước tôi, y ôm mặt đi lãng xa vì không thể chứng kiến nổi cảnh ấy. Tôi cũng ôm mặt theo Criton. Trong lúc ấy thì Apollodorus đang khóc bỗng thét lên một tiếng làm tất cả chúng tôi đều giật mình. Socrate vẫn bình tĩnh, ông nói: - Cái gì lạ vậy ? Không cho phụ nữ vào đây là để tránh cái cảnh này. Người ta cần phải chết trong thanh tịnh. Các con hãy bình tĩnh và nhẫn nại. Nghe những lời nói ấy chúng tôi hổ thẹn và thôi không khóc. Ông đi dạo một hồi cho đến khi cảm thấy nặng ở chân, rồi nằm xuống đúng theo lời dặn. Người giữ ngục quan sát tay chân ông, đè mạnh xuống hai bàn chân và hỏi: - Ông cảm thấy gì không ? - Không. Người ấy đi lần lên phía trên, vừa đè vừa hỏi. Chúng tôi thấy hai chân ông đã cứng và lạnh, Socrate cũng lấy tay ấn thử và nói: - Khi nào thuốc ngấm đến tim là xong. Khi lạnh đến thắt lưng, ông bỏ miếng vải che mặt và nói: - Criton, thầy nợ Asclepius một con gà, con nhớ trả món nợ ấy. - Con sẽ trả, còn gì nữa không ?
Không có tiếng trả lời, vài phút sau Socrate cử động, người giữ ngục bỏ miếng vải che mặt ra, Criton vuốt mắt và miệng cho người chết. Đó là giây phút cuối cùng của tôn sư chúng tôi, ông là người minh triết nhất, công bằng nhất và tốt nhất.
3. THỜI KỲ HỌC HỎI CỦA PLATON:
Cuộc gặp gỡ giữa Platon và Socrate có một tầm quan trọng đặc biệt. Platon thuộc về giai cấp trung lưu, đẹp trai và khoẻ mạnh. Ông đã từng ở trong quân ngũ và đã đoạt giải quán quân về thể thao. Không ai có thể ngờ rằng một người như vậy có thể trở nên một triết gia. Tâm hồn tế nhị của Platon tìm thấy vui thích trong biện chứng pháp của Socrate. Platon rất sung sướng khi nghiền ngẫm những lý thuyết của Socrate nhằm đả kích các luận điệu sai lầm đương thời: Platon dự vào cuộc tranh luận triết lý cũng như ông ta đã dự vào những cuộc tranh giải thể thao, và từ những cuộc tranh luận đó Platon đã đi đến những suy tư thâm thuý hơn. Chàng ta trở thành một người yêu triết lý và một môn đệ ưu tú của Socrate. Chàng thường nói rằng: "Tôi cám ơn trời đã cho tôi làm một người Hy lạp chứ không phải một dân mọi rợ, một người tự do chứ không phải một người nô lệ, một người đàn ông chứ không phải một người đàn bà, và quan trọng nhất là được sinh vào thời Socrate." Khi Socrate chết, Platon mới được 28 tuổi, và biến cố cảm động này đã in sâu vào tâm thức của Platon. Nó làm cho Platon thù ghét những tư tưởng dân chủ, thù ghét quần chúng thêm vào sự thù ghét phát sinh từ giai cấp quý tộc của Platon. Do đó ông ta chủ trương rằng cần phải tận diệt chế độ dân chủ và thay vào đó một chính thể do những phần tử quý tộc và sáng suốt lãnh đạo. Một trong những vấn đề trọng đại mà Platon đã nghiên cứu suốt đời là làm sao tìm ra người khôn ngoan nhất để giao phó việc lãnh đạo quốc gia.
Trong lúc đó những liên hệ giữa Platon và Socrate làm cho chính quyền đương thời nghi ngờ Platon. Những bạn bè của ông khuyên ông nên trốn khỏi Athènes và ông cũng cho rằng đây là một dịp tốt để chu du thế giới. Năm 399 tTL ông xách gói ra đi.
Những nơi nào ông đã đi qua chúng ta không được biết rõ. Hình như ông đã đi Ai cập trước tiên và ông rất bất bình khi nghe các nhà lãnh đạo tôn giáo cai trị xứ này nói rằng Hy lạp là một quốc gia ấu trĩ không có truyền thống và văn hoá và không thể so sánh được với quốc gia Ai cập. Sự bất mãn này làm ông ta suy nghĩ nhiều hơn và chuyến đi Ai Cập đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm của ông nhan đề là Utopia. Sau đó ông đáp tàu qua Sicie và đến Ý. Ở đó ông gia nhập nhóm triết gia do Pythagore sáng lập. Cảnh tượng một nhóm người có quyền chính trị rộng rãi lại say mê trong việc nghiên cứu và học hỏi, sống một cuộc đời bình dị mặc dù nắm nhiều quyền thế trong tay là một đề tài để Platon suy nghĩ. Ông đi chu du suốt 12 năm, học hỏi tất cả các chính thể, họp bàn với tất cả các nhóm, tìm hiểu tất cả các học thuyết. Một vài người cho rằng ông đã đến Judée và đã nghiên cứu học thuyết đượm tính chất xã hội của các triết gia ở đây. Có người cho rằng ông đã đến tận bờ sông Hằng và học hỏi tư tưởng các triết gia Ấn độ.
Ông trở về Athènes năm 387 tTL, lúc này ông đã 40 tuổi, một người già dặn sau nhiều năm học hỏi ở nhiều nước. Ông vẫn còn giữ sự hăng hái của tuổi trẻ nhưng ông đã nhận thức được rằng tất cả những tư tưởng quá khích chỉ là những chân lý nửa vời. Ông vừa là một triết gia, vừa là một thi sĩ, lối văn của ông vừa khúc chiết như một bài luận triết học, vừa đẹp đẽ như một bài thơ: đó là lối văn đàm thoại. Chưa bao giờ triết học trải qua một thời gian sáng lạn như vậy. Văn thể của ông sáng chói ngay cả trong những bản dịch. Shelley nhận xét rằng văn thể của Platon kết hợp luận lý sắc bén và hồn thơ lai láng, vừa dịu dàng trong âm điệu vừa hùng hồn trong lập luận. Nên biết rằng trước khi trở thành một triết gia Platon là một nhà soạn kịch.
Sự kết hợp của văn chương và triết lý, của khoa học và nghệ thuật trong các tác phẩm của Platon đôi khi làm chúng ta khó hiểu: chúng ta không biết rằng những nhân vật của Platon diễn tả tư tưởng của mình trong trường hợp nào, châm biếm, pha trò hay nói đứng đắn. Khuynh hướng pha trò châm biếm của Platon đôi khi làm chúng ta bỡ ngỡ. Những cuộc đối thoại do Platon viết ra là để cho đại chúng: nhờ trình bày những luận điệu bênh vực và đả kích, nhờ lập đi lập lại những ý tưởng nòng cốt, các tác phẩm của Platon rất thích hợp với những người muốn học triết lý cho qua thì giờ. Do đó những lối ngụ ngôn, những giọng văn hài hước thường rất nhiều. Ngoài ra lẽ cố nhiên còn có những tư tưởng liên quan đến những biến cố mà Platon cùng người đương thời thường bàn bạc đến, những tư tưởng này rất khó hiểu đối với một độc giả thế kỷ thứ hai mươi.
Chúng ta phải công nhận rằng Platon có những đặc tính mà ông thường chỉ trích. Ông không ưa những thi sĩ với trí tưởng tượng quá dồi dào. Ông không ưa những giáo sĩ, nhưng chính ông là một giáo sĩ, một giảng sư. Giống như Shakespeare, ông cho rằng mọi sự so sánh đều nhầm lẫn, nhưng ông lại luôn luôn dùng phương pháp so sánh. Ông chỉ trích các triết gia đương thời là những kẻ miệng lưỡi nhưng chính ông cũng dùng phương pháp này. Faguet đã nhại lối văn của Platon như sau: - Toàn thể lớn hơn một phần, phải chăng ? - Chắc chắn như vậy. - Và một phần nhỏ hơn toàn thể phải chăng ? - Đúng như thế. - ... Do đó rõ ràng là triết gia phải lãnh đạo quần chúng. - Ông nói cái gì ? - Thật là rõ ràng, chúng ta hãy lý luận trở lại.
Mặc dù tất cả những lời chỉ trích, những cuốn đối thoại của Platon là một trong những tác phẩm hay nhất của thế giới. Tác phẩm Cộng hoà là một công trình rộng lớn dưới hình thức một cuốn sách nhỏ trong đó tập trung những tư tưởng của Platon về siêu hình, thần học, đạo đức học, tâm lý học, sư phạm, chính trị và thẩm mỹ. Chúng ta có thể tìm thấy trong đó những vấn đề mà ngày nay chúng ta đang băn khoăn suy nghĩ: thuyết Cộng sản và xã hội, thuyết nam nữ bình quyền, thuyết hạn chế sinh sản và phương pháp dạy trẻ. Những vấn đề của Nietzsche về đạo đức và quý tộc, những vấn đề cũng Rousseau về trạng thái thiên nhiên và tự do giáo dục, những vấn đề của Bergson về đà sống (élan vital) và những vấn đề của Freud về phân tâm học. Emerson nói rằng : "Platon là triết lý, và triết lý là Platon". Đối với ông, thì quyển Cộng hoà của Platon cũng như kinh Coran và người ta có thể đốt tất cả các thư viện, vì tinh hoa của các thư viện đều nằm trong cuốn sách này.
Chúng ta hãy nghiên cứu tác phẩm Cộng hoà !
4. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC:
Cuộc tranh luận xảy ra trong nhà của Cephalus, một người giàu có thuộc giai cấp quý tộc. Trong cuộc tranh luận còn có Glaucon và Adeimantus, anh của Platon, Thrasymachus, một triết gia đương thời. Socrate (mà Platon dùng như một nhân vật để diễn tả những tư tưởng của chính mình) hỏi Cephalus: - Lợi ích quan trọng nhất mà tiền của đem lại cho ta, theo ý ông là gì ? Cephalus trả lời: tiền của cho phép ông ta có thể độ lượng, thật thà và công bằng. Socrate hỏi: công bằng nghĩa là gì ? Và mở ra một cuộc tranh luận dài. Không gì khó hơn một định nghĩa, vì nó đòi hỏi nhiều khôn khéo và sáng suốt trong tư tưởng. Socrate đả phá tất cả những định nghĩa do cử toạ đưa ra cho đến lúc Thrasymachus mất bình tĩnh và la lên: - Socrate, ông có điên không ? Tại sao các ông lại dẫm chân nhau như vậy ? nếu ông muốn biết công bằng là gì, ông phải trả lời chứ không được hỏi, ông không nên tự hào vì đả phá được kẻ khác... Có rất nhiều người có thể đặt câu hỏi nhưng không thể trả lời. Socrate không nao núng. Ông vẫn hỏi chứ không trả lời, và sau cùng Thrasymachus đưa ra một định nghĩa: "Hãy nghe đây: tôi cho rằng sức mạnh là lẽ phải, và công bằng là quyền lợi của kẻ mạnh ... Những chính thể khác nhau làm nên luật, dù đó là chính thể dân chủ, quý tộc hay độc tài, tất cả đều nhắm đến quyền lợi của mình; và những điều luật ấy, làm ra để phụng sự quyền lợi của chúng, được đặt lên đầu nhân dân và gọi là công bằng, những kẻ nào cưỡng lại sẽ bị phạt và bị xem là không công bằng...
Tôi nói về sự bất công một cách tổng quát, và ý nghĩ của tôi rất rõ ràng khi nghiên cứu chính thể độc tài. Trong chính thể này, người ta dùng sức mạnh và sự gian trá để xâm chiếm tài sản kẻ khác. Khi một người đã lấy tất cả tài sản của dân chúng và bắt dân chúng làm nô lệ người ta xem nó không phải là một kẻ thượng lưu. Người ta chỉ trích sự bất công khi người ta là nạn nhân chứ không phải vì bị lương tâm cắn rứt mỗi khi có hành vi bất công."
Đó là học thuyết mà ngày nay được gán ít nhiều cho Nietzsche. "Tôi thường cười những kẻ yếu tưởng rằng mình là tốt, chỉ vì chúng nó chân tay què quặt". Stirner diễn đạt tư tưởng một cách gọn gàng hơn: "một nắm quyền hành tốt hơn một bao lẽ phải". Tư tưởng trên cũng được Platon diễn tả trong Gorgias. Calliclès chỉ trích rằng đạo đức là một phát minh của kẻ yếu để vô hiệu hóa quyền lực của kẻ mạnh.
"Chúng nó khen và chê tuỳ theo quyền lợi của chúng: chúng nói rằng gian manh là bất công và nhục nhã, chúng nó cho rằng gian xảo là ý muốn có nhiều hơn người hàng xóm, vì tự biết trình độ thấp kém của mình, chúng chỉ mong được bình đẳng... Nhưng nếu có một người với đầy đủ quyền lực, người ấy sẽ vượt lên trên những lý luận này, sẽ chà đạp tất cả những công thức, những luật lệ ...
"Những kẻ sống thực sự cần phải cho ý chí của mình phát triển đến tột độ; và khi đã phát triển ý chí đến tột độ, họ phải có đủ can đảm và thông minh để phụng sự ý chí, để thoả mãn tất cả những điều ham muốn. Đó là lẽ công bằng tự nhiên, sự quý phái tự nhiên. Nhưng đa số không thể làm như vậy, do đó họ chỉ trích người khác. Chính vì họ nhục nhã trong sự bất lực, chính vì họ muốn che dấu sự nhục nhã ấy, họ tuyên bố rằng lòng tham vô độ là thấp kém... Họ muốn kìm hãm những kẻ quý phái hơn và cổ võ sự công bằng chỉ vì họ là những kẻ nhút nhát".
Sự công bằng ấy là một đạo đức không phải đối với người xuất chúng mà đối với người hạ cấp; đó là một thứ đạo đức nô lệ không phải là đạo đức xuất chúng, những đức tính thực sự là của người ta là lòng can đảm và trí thông minh.
Có lẽ rằng những tư tưởng phi đạo đức kể trên phản ảnh sự bành trướng của chủ nghĩa đế quốc trong chính sách ngoại giao của tiểu quốc Athènes, chính sách này đối xử rất tàn bạo với những dân tộc nhỏ bé. Trong một bài văn tế, Periclès nói: "Đế quốc của ngài căn cứ vào quyền lực của ngài chứ không phải là thiện chí của thần dân". Các sử gia kể lại công cuộc ép buộc Melos phải về phe Athènes để chống với Sparte như sau: "Ông cũng biết như chúng tôi rằng chỉ có vấn đề lẽ phải đối với những kẻ quyền lực ngang nhau: kẻ mạnh làm cái gì y có thể làm và kẻ yếu chịu đựng cái gì y bắt buộc phải chịu đựng". Chúng ta có ở đây những vấn đề đạo đức căn bản, những lý thuyết căn bản về luân lý. Công bằng là gì ?
- Chúng ta cần phải tìm lẽ phải hay cần phải tìm quyền lực ? -Chúng ta nên tốt hay nên mạnh ?
Platon giải quyết vấn đề này như thế nào ? Sự thật thì ông không giải quyết gì cả. Ông nhấn mạnh rằng lẽ công bằng là một sự quan hệ giữa cá nhân, tuỳ thuộc vào tổ chức xã hội và do đó cần phải được nghiên cứu song song với cơ cấu xã hội chứ không thể được nghiên cứu như một thái độ cá nhân. Nếu chúng ta có thể hình dung một quốc gia công bằng, chúng ta mới có đủ yếu tố để định nghĩa một cá nhân công bằng. Platon lấy ví dụ rằng muốn thử con mắt của một cá nhân cần phải cho họ đọc những chữ lớn rồi dần dần đến những chữ nhỏ. Cũng thế, định nghĩa công bằng trong mẫu mực lớn là quốc gia giản dị hơn định nghĩa công bằng trong mẫu mực nhỏ là cá nhân. Sự thật thì Platon muốn dùng lối lý luận này để nối liền hai phần nghiên cứu. Chẳng những ông muốn thảo luận về vấn đề đạo đức cá nhân mà ông còn muốn thảo luận cả về vấn đề xã hội và chính trị. Trong cuộc thảo luận này Platon sắp đưa ra tác phẩm Quốc gia lý tưởng (Utopia).
5. VẤN ĐỂ CHÍNH TRỊ:
Công bằng sẽ là một vấn đề giản dị nếu con người cũng giản dị. Platon tưởng tượng như sau: Trước hết chúng ta thử hình dung nếp sống của một xã hội giản dị. Người ta sẽ sản xuất lúa, rượu, áo quần, dày dép, nhà cửa. Họ sẽ làm việc lưng trần và chân không trong mùa hạ, mang giày và áo ấm trong mùa đông. Họ tự nuôi sống bằng lúa mì, xay bột và nướng bánh, họ ngồi ăn trên chiếu hoặc trên lá, ngả lưng vào giường hoặc vào thân cây. Họ ăn uống với gia đình, uống rượu do họ tự làm lấy, mang những vòng hoa trên đầu, hát những điệu ca tụng thần linh, sống trong sự hoà nhã êm ái không để cho nhân khẩu trong gia đình vượt quá phương tiện sinh nhai vì họ biết lo xa, sợ nghèo đói và chiến tranh... Lẽ cố nhiên họ có những món ăn ưa thích: trái ô liu, phó mát, hành, su và những thứ rau khác; họ tráng miệng bằng xoài, mận, đào, họ nướng những loại bánh và uống rượu có chừng mực. Với những món ăn như vậy họ có thể sống an nhàn cho đến tuổi già và để lại cho con cháu một đời sống cũng an nhàn.
Chúng ta hãy để ý đến sự kiểm soát sinh sản, sự ăn chay và sự sống theo thiên nhiên mà các huyền thoại Do thái dùng để tả thiên đường. Toàn thể đoạn văn làm chúng ta liên tưởng đến triết lý của Diogène khuyên ta nên trở về sống với thú vật bởi vì chúng nó sống yên ổn.
Chúng ta cũng còn liên tưởng đến các lý thuyết của Saint Simon, Fourrier, William Morris và Tolstoi. Nhưng Platon có phần hoài nghi hơn những tác giả ấy, ông không đi sâu vào vấn đề: tại sao một đời sống gần như thiên đàng không bao giờ đến với nhân loại ? Tại sao những tiểu quốc thuộc loại Utopia chưa bao giờ nằm trên bản đồ ?
Platon trả lời: Đó là tại lòng tham và sự xa hoa. Con người không chịu bằng lòng với một đời sống giản dị, họ luôn luôn muốn chiếm đoạt, muốn ao ước, muốn ganh đua, muốn ghen ghét. Họ sẽ bất mãn với những gì họ có và chạy theo những gì họ chưa có, họ chỉ muốn những cái gì thuộc về kẻ khác. Kết quả là sự xâm chiếm lãnh thổ kẻ khác, sự cạnh tranh giữa các nhóm để giành giựt tài nguyên và cuối cùng là chiến tranh. Nền kinh tế phát triển đem lại những giai cấp mới. "Tất cả những quốc gia đều gồm có hai quốc gia, quốc gia của những người nghèo và quốc gia của những người giàu, hai quốc gia xung đột nhau gay gắt. Nếu cho rằng đó chỉ là một quốc gia thì chúng ta lầm lỗi lớn". Một giai cấp thương gia trỗi dậy muốn dùng tiền của để chiếm địa vị và cổ võ sự tiêu thụ hàng hoá. "Chúng nó sẽ tiêu những số tiền lớn để các bà vợ trang sức". Những sự thay đổi trong việc phân phối lợi tức gây nên những sự thay đổi về mặt chính trị : khi lợi tức của bọn thương gia vượt quá lợi tức của bọn địa chủ, chính thể phú nông nhường chỗ cho chính thể phú thương. Lúc đó sự phối hợp các lực lượng xã hội và sự điều chỉnh chính sách quốc gia, nói tóm là nghệ thuật trị nước được thay thế bằng những thủ đoạn chính trị phát xuất từ những đảng phái và sự háo danh lợi.
Tất cả những chính thể quốc gia đều có khuynh hướng tự đào thải khi đi vào con đường quá khích. Chính thể quý tộc tự đào thải khi thu hẹp số người nắm giữ quyền hành, chính thể dân chủ tự đào thải vì lòng tham giành giựt danh lợi. Trong cả hai trường hợp thế nào cũng đi đến cách mạng. Khi cách mạng xảy đến, người ta có cảm tưởng rằng nguyên do là những biến cố nhỏ nhặt, sự thật thì cách mạng là hậu quả của vô số lỗi lầm chồng chất lại. "Khi một cơ thể đã suy yếu, những nguyên do rất tầm thường cũng có thể đem đến bệnh tật. Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo chiến thắng đối thủ của họ, tàn sát một số, trục xuất một số và cho tất cả mọi người những quyền hành và tự do bình đẳng".
Nhưng chính thể dân chủ tự huỷ vì quá dân chủ. họ muốn rằng tất cả mọi người đều có quyền tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia. Mới xem qua thì đó là một lý tưởng quá tốt đẹp, nhưng thực ra nó trở nên vô cùng nguy hiểm vì dân chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và ấn định đường lối thích hợp nhất. "Dân chúng không có kiến thức, họ chỉ lập lại những điều gì nhà cầm quyền nói với họ". Muốn ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn những vở kịch trong đó những học thuyết kia được đem ra chỉ trích hoặc cổ võ trước công chúng. Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì cho con thuyền quốc gia lướt trong vùng bão tố, miệng lưỡi của bọn chính trị gia làm nước nổi sóng và lật hướng đi của con thuyền. Không chóng thì chầy, một chính thể như vậy sẽ đi vào con đường độc tài. Dân chúng rất ưa những lời nịnh hót, những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ tự gán cho mình cái danh nghĩa bảo vệ dân chúng rất có cơ hội cầm quyền tối cao.
Càng nghĩ đến vấn đề này, Platon càng kinh ngạc về sự điên rồ khi giao cho quần chúng trọng trách chọn người cầm giềng mối quốc gia, đó là chưa nói đến những thế lực kim tiền núp sau sân khấu chính trị dân chủ để điều khiển những chính quyền bù nhìn. Platon phàn nàn rằng đối với một việc nhỏ như việc đóng giày, người ta còn phải lựa chọn những người thợ chuyên môn, tại sao trong lãnh vực chính trị là một lãnh vực trọng đại, người ta có thể tin tưởng rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiều phiếu đều biết cách trị nước an dân. Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta mời đến một y sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và thực tập, chúng ta không mời những y sĩ đẹp trai nhất hoặc những y sĩ miệng lưỡi nhất. Thế thì tại sao khi quốc gia lâm nguy, chúng ta không tìm đến những người khôn ngoan nhất, đức hạnh nhất ? Tìm ra một phương pháp để loại bỏ bọn bất tài và bịp bợm ra khỏi chính phủ, chọn lựa những kẻ tài cao đức trọng, đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.
6. VẤN ĐỀ TÂM LÝ:
Đằng sau vấn đề chính trị là vấn đề tính chất con người. Muốn hiểu chính trị, chúng ta cần phải hiểu tâm lý. " Con người thế nào, quốc gia thế ấy"; "Chính thể thay đổi cũng như tính người thay đổi... Quốc gia được cấu tạo bởi bản chất con người". Do đó, chúng ta không thể mơ tưởng những quốc gia hoàn hảo hơn khi chúng ta chưa có những con người hoàn hảo. Chúng ta là những người thật kỳ lạ, luôn luôn uống thuốc chữa bệnh làm cho bệnh trạng càng rắc rối và nặng hơn, luôn luôn tưởng rằng có thể được chữa lành bởi một vài thứ thuốc rẻ tiền do một vài người chỉ bày, nhưng không bao giờ khá hơn, trái lại chỉ nặng thêm mà thôi... Những kẻ ấy thật kỳ lạ khi họ muốn trở thành nhà lập pháp và tưởng tượng rằng với một vài cải cách họ có thể chấm dứt nạn tham nhũng của nhân loại. Họ không biết rằng tham nhũng cũng như con rắn thần thoại, chặt đầu này nó mọc đầu khác".
Chúng ta hãy xem xét con người, chất liệu cấu tạo triết lý chính trị. Hành động con người có ba nguyên do: tham, sân và trí. Lòng tham muốn, khao khát, dục, bản năng, tất cả đều thuộc một loại; sân si, giận dữ, can đảm, tất cả đều thuộc một loại; trí huệ, hiểu biết lý luận, tất cả đều thuộc một loại. Lòng tham nằm nơi thận, nó là một kho chứa năng lực phần lớn là thuộc tính dục. Sân si nằm ở trái tim, và bị chi phối bởi áp lực máu trong huyết quản. Trí huệ nằm trong đầu, và có thể trở thành kẻ hướng đạo cho linh hồn.
Những yếu tố ấy có trong tất cả mọi người, nhưng với mức độ khác nhau. Một số người chỉ là sự thể hiện của lòng tham, luôn luôn muốn chiếm đọat tiền của, muốn sống xa hoa và phô trương, muốn chạy theo những gì họ chưa có. Đó là những người cầm đầu trong giới làm ăn. Một số khác ưa gây gỗ và can đảm, họ thích gây gỗ chỉ để gây gỗ, họ muốn có quyền hơn là có của, họ sung sướng trên chiến trường hơn là ngoài đồng áng, những người này cấu tạo những lực lượng lục quân và hải quân trên thế giới. Cuối cùng, có những người ưa thích suy nghĩ và hiểu biết, họ không chạy theo của cải hoặc chiến thắng mà chạy theo sự hiểu biết. Họ tránh xa thị trường và chiến trường để suy tư trong cảnh tịch mịch. Họ là những người khôn ngoan đứng riêng rẽ và không được ai sử dụng.
Hành vi của con người có giá trị khi lòng tham sân si được hướng dẫn bởi trí tuệ. Trong một quốc gia lý tưởng, những lực lượng sản xuất chỉ lo sản xuất mà không cai trị, những lực lượng võ trang chỉ lo bảo vệ mà không cai trị, những lực lượng trí huệ phải được nuôi dưỡng và bảo vệ và phải cầm quyền cai trị. Nếu không được hướng dẫn bởi trí huệ, dân chúng chỉ là một đám ô hợp, dân chúng cần sự hướng dẫn của triết gia cũng như lòng tham cần sự hướng dẫn của trí huệ. "Sự sụp đổ sẽ xảy đến khi những con buôn nhờ giàu sang đã trở thành những người cai trị". Hoặc khi một tướng lãnh dùng lực lượng võ trang của mình để lập nên một chính thể quân nhân. Những người sản xuất rất thích hợp trong lãnh vực kinh tế, những chiến sĩ rất thích hợp trên chiến trường, nhưng cả hai đều tai hại trong lãnh vực chính trị, trong những bàn tay vụng về của họ, những thủ đoạn chính trị thay thế nghệ thuật trị nước an dân. Thuật trị nước vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, nó đòi hỏi nhiều sự tận tâm và học hỏi. Chỉ những triết gia mới thích hợp trong việc trị nước. "Khi nào triết gia trở thành quốc vương và tất cả quốc vương trên thế giới đều trở thành triết gia thì những tệ đoan của xã hội sẽ chấm dứt, đó là tư tưởng nòng cốt của Platon.
7. GIẢI PHÁP TÂM LÝ:
Chúng ta phải làm những gì ? Chúng ta phải gởi về đồng quê tất cả những công dân trên 10 tuổi. Một khi đã kiểm soát được đám trẻ con chúng ta sẽ không để cho lũ trẻ con này bị ảnh hưởng xấu của cha mẹ chúng nó. Chúng ta không thể xây dựng một quốc gia lý tưởng mà không hoàn toàn dứt khoát với quá khứ. Có thể dùng một miền đất xa xôi nào đó để thực hiện một quốc gia lý tưởng. Đám trẻ con ấy sẽ được dạy dỗ đồng đều: những kẻ kỳ tài xuất chúng có thể tìm thấy ở tất cả mọi giới vậy cần phải cho tất cả trẻ con những cơ hội học hỏi đồng đều.
Trong 10 năm đầu, nền giáo dục sẽ đặc biệt chú trọng đến thể dục, mỗi trường học đều có một sân chơi và một sân vận động. Chương trình học gồm toàn những môn thể dục và thể thao. Trong 10 năm đó, lũ trẻ sẽ có một sức khoẻ dồi dào khiến cho việc khám bệnh và trị bệnh trở nên hoàn toàn vô ích. Sở dĩ người ta thường mắc bệnh là đã sống một cuộc đời quá nhàn rỗi, quá bê tha, thiếu vận động. Về mục đích của nền giáo dục trong giai đoạn này là làm cho bệnh tật không có cơ hội để phát triển. Chính những kẻ nhà giàu vì cuộc sống quá nhàn rỗi đã tự đem bệnh hoạn đến cho mình. Nếu một kẻ lao động nhuốm bệnh, họ sẽ tìm một loại thuốc nào công hiệu để chóng khỏi. Nếu có người khuyên nhủ họ phải trải qua một thời kỳ điều trị công phu như là lựa chọn các món ăn, tắm hơi, đấm bóp... Kẻ ấy sẽ trả lời rằng họ không có thì giờ và họ cũng không muốn mất công nuôi dưỡng bệnh trạng trong khi còn bao nhiêu việc khác cần phải làm, họ sẽ chế nhạo ông thầy thuốc đã khuyên họ những lời khuyên lố bịch ấy, họ sẽ ăn uống như thường ngày. Nếu họ lành bệnh thì sẽ tiếp tục nghề nghiệp, nếu bệnh không lành họ sẽ chết một cách giản dị. Chúng ta không thể khoanh tay ngồi nhìn một quốc gia gồm toàn những bệnh nhân sống không ra sống, chết không ra chết. Quốc gia lý tưởng cần phải được xây dựng trên sức khoẻ của dân chúng.
Tuy nhiên, những môn thể dục và thể thao có khuynh hướng phát triển con người chỉ về một chiều. Những kẻ can đảm có sức mạnh siêu quần thường không được nhã nhặn. Quốc gia lý tưởng không thể chỉ gồm những võ sĩ và lực sĩ. Vậy cần phải dạy cho dân chúng biết âm nhạc. Nhờ âm nhạc mà tâm hồn con người ý thức được sự điều hoà và nhịp điệu, do đó ý thức được công lý. Sự điều hoà không bao giờ đi đôi với bất công. Nhạc lý sẽ thâm nhập vào linh hồn con người khiến cho linh hồn trở nên đẹp đẽ hơn. Nhạc lý sẽ uốn nắn tính tình con người và do đó đem đến một giải pháp tốt đẹp cho các vấn đề xã hội và chính trị. Mỗi khi tiết tấu của âm nhạc thay đổi thì các nguyên lý căn bản của xã hội cũng thay đổi theo.
Âm nhạc chẳng những sửa đổi tánh tình trở nên tế nhị hơn mà còn giữ gìn hoặc bảo đảm sức khoẻ. Dân Corybantic có tục lệ chữa trị các phụ nữ mắc bệnh điên bằng âm nhạc. Một khi điệu nhạc trỗi lên các bệnh nhân sẽ nhảy nhót một cách cuồng loạn cho đến khi kiệt lực và nằm ngủ. Sau giấc ngủ đa số bệnh nhân đã bình phục. Những tư tưởng bị lãng quên trong vô thức được khơi động bởi những phương pháp kể trên. Những kẻ xuất chúng là những kẻ có những cội rễ thiên tài bắt nguồn từ cõi vô thức. Không một người nào trong trạng thái hữu thức có thể có những ý nghĩ xuất chúng. Những người xuất chúng và những người điên giống nhau ở điểm này.
Platon đã đề cập đến khoa phân tâm học. Ông nói rằng sở dĩ khoa tâm lý chính trị của nhân loại còn mơ hồ vì người ta chưa biết rõ và chưa nghiên cứu tường tận những sở thích và bản năng của con người. Nếu quan sát những giấc mơ, người ta có thể hiểu rõ hơn về những bản năng ấy. "Một vài loại thú vui được xem như bất hợp pháp, mọi người ai cũng thích những thú vui ấy nhưng đối với phần đông thì sở thích bị dồn ép bởi luật lệ và lý trí. Những sở thích luôn luôn có mặt trong tiềm thức trong khi khả năng của lý trí bị lu mờ. Trong những lúc ấy những sở thích trỗi dậy như những con vật và có thể gây ra tất cả những tội ác có thể tưởng tượng được. Đối với những người có sức khoẻ tinh thần họ luôn luôn đủ sức kềm hãm những khuynh hướng kể trên và không rơi vào vòng tội lỗi". Âm nhạc và nhịp độ khiến cho tâm hồn trở nên khoẻ mạnh. Tuy nhiên, quá nhiều âm nhạc cũng có hại như quá nhiều thể thao, thể dục. Những lực sĩ chỉ biết có thể dục không khác gì một kẻ rừng rú, những nhạc sĩ chỉ biết có nhạc thường trở nên quá yếu mềm. Vậy cần phải dung hoà cả hai khuynh hướng. Quá 16 tuổi mọi môn âm nhạc cần phải đình chỉ, trừ những môn đồng ca. Âm nhạc còn cần phải được dùng để giảng giải những môn khó khăn hơn như toán học, sử ký và khoa học. Cần phải phổ nhạc những bài học để cho dễ nhớ hơn. Những kẻ nào không có khiếu để học các môn kể trên được tự do lựa chọn những môn khác, không nên ép buộc trẻ con phải thấu hiểu bất cứ môn học nào. Người ta cần phải được tư do trong vấn đề học hỏi. Những môn học ép buộc không bao giờ thấm nhuần vào tâm trí của người học. Việc học cần phải được tổ chức như một trò chơi và như thế có thể cho phép chúng ta tìm hiểu khuynh hướng thiên nhiên của đứa trẻ.
Tâm trí cần phải được tự do trong việc phát triển và thể chất cần phải mạnh mẽ nhờ các môn thể thao và thể dục. Có như vậy quốc gia mới được vững mạnh trên hai căn bản tâm lý và sinh lý. Tuy nhiên cần phải có một căn bản đạo đức, tất cả những cá nhân trong một tập thể cần phải được thống nhất, họ phải biết vai trò của họ trong tập thể, tất cả mọi người đều có quyền hành và trách nhiệm đối với người khác. Chúng ta phải xử trí cách nào trong khi mọi người đều tham lam, ganh ghét, dâm dật và ưa gây gổ ? Phải dùng đến cảnh sát chăng ? Đó là một phương pháp dữ tợn và tốn kém. Có một phương pháp khác tốt đẹp hơn đó là sự chế tài của một đấng tối cao: chúng ta cần có một tôn giáo.
Platon tin tưởng rằng một nước không có tín ngưỡng vào một đấng tối cao không thể là một nước mạnh. Chỉ tin tưởng vào một nguyên lý sơ khai, một sức mạnh vũ trụ hoặc một sức sống mãnh liệt mà không tin tưởng vào một đấng tối cao thì cũng chưa đủ để tạo nên hy vọng, sự tận tâm và lòng hy sinh, chưa đủ để an ủi tinh thần của những kẻ thất vọng hoặc gây sự can đảm cho những kẻ chinh chiến. Chỉ có một đấng tối cao mới có thể làm những việc sau này, mới có thể bắt buộc những người ích kỷ phải dằn lòng để sống một cuộc đời tiết độ, kềm hãm sự đam mê. Cần phải cho dân chúng tin tưởng vào sự bất diệt của linh hồn: chính sự tin tưởng ấy làm cho người ta có can đảm để đương đầu với sự chết hoặc chịu đựng sự vĩnh viễn ra đi của những kẻ thân yêu.
Người ta sẽ chiến đấu với nhiều ưu thế hơn khi người ta chiến đấu với lòng tin. Vẫn biết rằng sự hiện hữu của một đấng tối cao không bao giờ có thể chứng minh được; vẫn biết rằng đấng tối cao chỉ có trong sự tưởng tượng do hy vọng và lòng thành kính của con người đặt ra, vẫn biết rằng linh hồn không khác gì những tiếng nhạc do một nhạc khí phát ra và sẽ tiêu tan cùng lúc với nhạc khí ấy... Nhưng chúng ta vẫn thấy rằng tín ngưỡng không đem lại điều gì có hại mà chỉ đem lại những điều lợi cho con em của chúng ta.
Công việc giảng giải những hiện tượng trong vũ trụ trước óc tò mò càng ngày càng lớn của đám thanh niên là một việc rất khó, nhất là khi chúng đến lứa tuổi 20 và bắt đầu tìm hiểu để thực nghiệm những điều đã học. Đó cũng là lúc chúng ta tổ chức những kỳ thi tổng quát vừa lý thuyết vừa thực hành. Cần phải cho những thí sinh các thử thách vật chất cũng như tinh thần. Tất cả những khả năng sẽ có dịp xuất hiện cùng lúc với những nhược điểm. Những thí sinh nào bị rớt sẽ nhận những công việc kinh tế của quốc gia, họ sẽ là những nhà buôn bán, thư ký, thợ, làm ruộng. Cuộc thi phải được tổ chức một cách vô tư, tất cả những người có khả năng, bất luận họ thuộc thành phần nào đều phải được chấm đậu.
Những người được chấm đậu qua kỳ thi đầu tiên này sẽ học thêm 10 năm nữa để rèn luyện tinh thần, thể chất và tính tình. Sau 10 năm đó họ sẽ thi một lần thứ hai khó hơn lần trước rất nhiều. Những kẻ nào rớt sẽ trở thành những người phụ tá, những sĩ quan tham mưu trong tổ chức chính phủ. Cần phải an ủi những kẻ bị thi rớt để họ chấp nhận số phận một cách vui vẻ. Làm thế nào để đạt mục đích ấy ? Chúng ta phải nhờ đến tôn giáo và tín ngưỡng. Chúng ta nói cho họ biết rằng số trời đã định như vậy và không thể thay đổi được. Chúng ta có thể nói với họ như sau: "Hỡi các đồng bào, tất cả chúng ta đều là anh em nhưng trời sinh chúng ta mỗi người một khác, có người có khả năng chỉ huy, những người ấy không khác gì vàng, họ phải có những vinh dự lớn nhất. Có những người khác được ví như bạc, họ có thể là những kẻ phụ tá đắc lực. Những người còn lại là những người nông phu hoặc thợ thuyền, họ có thể ví như sắt và đồng. Có nhiều khi cha mẹ vàng sinh con bạc hoặc cha mẹ bạc sinh con vàng. Vậy cần phải thay đổi ngôi thứ để thích hợp với khả năng của mọi người. Những kẻ làm quan to cũng không nên buồn phiền khi thấy con cái mình phải làm nông dân hoặc thợ thuyền. Trái lại cũng có những trường hợp con cái nông dân thợ thuyền trở nên quan lớn. Số trời đã định rằng nếu để những người thuộc hạng sắt và đồng lên cầm quyền thì quốc gia sẽ điêu tàn".
Có lẽ nhờ huyền thoại ấy mà chúng ta thu hoạch được sự phục tùng của dân chúng hầu thi hành chính sách quốc gia. Đối với những kẻ thi đậu kỳ thứ hai phải làm thế nào ? Họ sẽ được học môn triết lý. Lúc này họ đã được 30 tuổi vì không nên cho những người quá trẻ học triết lý quá sớm, họ sẽ quen thói suy luận cãi cọ, hồ nghi... giống như những con chó con hay cắn xé những miếng giẻ trong các trò chơi của chúng. Theo Platon thì triết lý có hai nghĩa: Đó là phương pháp suy luận một cách minh bạch và cai trị một cách khôn ngoan. Trước hết những kẻ trí thức trẻ tuổi phải học cách suy luận minh bạch, họ phải biết thế nào là một ý nghĩ.
Lý thuyết của Platon về ý nghĩ là một trong những lý thuyết rắc rối và tối tăm nhất của lịch sử triết lý. Platon cho rằng ý nghĩ có thể bao trùm tổng quát hoặc có thể là một định luật chi phối vạn vật hoặc có thể là một lý tưởng. Sau thế giới hiện tượng do các giác quan của con người phát hiện là thế giới của những ý nghĩ do sự suy luận phát hiện. Thế giới của những ý nghĩ có tính cách trường tồn hơn thế giới hiện tượng và do đó có thể xem là xác thực hơn. Ví dụ ý nghĩ về con người trường tồn hơn sự hiện hữu của ông A, ông B hay bà C. Ý nghĩ về vòng tròn tồn tại mãi mãi trong khi một vòng tròn kẻ trên giấy có thể biến mất. Một cái cây có thể còn đứng vững hoặc đã ngã xuống nhưng những định luật chi phối sự đứng vững hoặc ngã xuống của cái cây còn tồn tại mãi mãi. Thế giới của ý nghĩ do đó có thể coi là đã có trước thế giới hiện tượng và có thể tồn tại sau khi thế giới hiện tượng đã biến mất. Đứng trước một cây cầu giác quan chỉ cảm thấy một khối khổng lồ bằng sắt và xi-măng nhưng chính nhờ ý nghĩ mà người kỹ sư hình dung được các định luật chi phối sự thành hình của cây cầu, các định lý toán học, vật lý học theo đó tất cả cây cầu phải được xây cất. Nếu những định luật ấy không được tuân theo, cây cầu sẽ sụp đổ. Có thể nói rằng chính những định luật đóng vai trò của đấng tối cao để giữ cho cây cầu đứng vững. Các định luật do đó là một phần cần thiết trong việc học hỏi triết lý. Ở trước cửa đi vào Hàn lâm viện Platon cho vẽ những chữ sau đây: "Kẻ nào không thông suốt hình học thì xin chớ vào đây".
Không có thế giới của ý nghĩ mọi vật sẽ hỗn độn và vô nghĩa. Chính ý nghĩ cho phép con người sắp xếp vũ trụ theo thứ tự. Thế giới không có ý nghĩ là một thế giới không có thật, không khác gì những hình bóng cử động trên tường. Do đó mục đích chính của nền đại học là đi tìm những ý nghĩ để biết được hướng tiến lý tưởng, biết được sự tương quan giữa vật này và vật khác, biết vũ trụ diễn biến như thế nào. Chúng ta cần phải phối hợp và sắp đặt các kinh nghiệm của giác quan theo các tiêu chuẩn kể trên, chính điểm này là điểm khác biệt duy nhất giữa người ngu và người thông minh.
Sau 5 năm học hỏi về thế giới của ý nghĩ, về nguồn gốc và sự diễn tiến của vũ trụ, sau 5 năm học hỏi khác về cách áp dụng những nguyên lý kể trên trong việc xử thế và trị nước, sau 10 năm học hỏi để phát triển thể chất và tinh thần, những kẻ được may mắn chấm đậu đã sẵn sàng để cầm quyền chưa ? Chắc chắn họ đã trở nên những triết gia lãnh tụ đủ sức để cầm quyền và giải phóng xứ sở chưa ?
Platon cho rằng chưa đủ. Sự đào luyện đến đây vẫn còn khiếm khuyết. Sau giai đoạn đào luyện về lý thuyết cần phải bước qua giai đoạn đào luyện bằng thực hành. Cần phải cho những ông tiến sĩ ấy hoà mình vào đời sống, các lý thuyết sẽ không có giá trị nếu chúng không bị thử thách bởi cuộc sống hằng ngày. Những ông tiến sĩ này phải chung đụng với đời một cách hoàn toàn bình đẳng, họ phải cạnh tranh để mưu sống với những nhà buôn bán, những phần tử đầy thủ đoạn xảo quyệt, trong cuộc sống này họ sẽ được đào luyện bởi trường đời, họ sẽ đem mồ hôi để đổi lấy bát cơm. Cuộc sống này sẽ kéo dài thêm 15 năm. Một số các thí sinh sẽ bị đào thải, số còn lại sẽ trở nên ôn hoà và tự tin hơn trước, họ không còn tự đắc mù quáng vào những lý thuyết, họ sẽ có một sự hiểu biết quý báu do truyền thống, kinh nghiệm và sự đấu tranh đem lại. Những người ấy xứng đáng được cầm quyền trị nước.
8. GIẢI PHÁP CHÍNH TRỊ:
Dân chủ có nghĩa là cơ hội đồng đều cho toàn thể công dân nhất là trong lãnh vực giáo dục. Nó không phải chỉ là để cho mọi người có cơ hội tham gia chính quyền, điểm quan trọng là tất cả mọi người đều có cơ hội học hỏi để sau này có thể đảm nhận những phần việc trong chính quyền. Tuy nhiên chỉ những kẻ nào tỏ ra thông minh xuất chúng mới có đủ điều kiện. Những chức vụ cao sẽ được lựa chọn không phải bằng cách bầu cử cũng không phải bằng sự đấu tranh giữa các phe nhóm mà chính là bằng khả năng của từng người. Không một người nào được giữ chức vụ cao mà không được huấn luyện trước hoặc chưa làm tròn nhiệm vụ ở những chức vụ thấp.
Phải chăng đây là một chính thể quý tộc ? - Vấn đề danh từ không quan trọng lắm, nó chỉ quan trọng đối với người ngu và các chính trị gia. Chúng ta muốn được cai trị bởi những phần từ xuất sắc nhất, đó là tinh hoa của chính thể quý tộc. Tuy nhiên chúng ta thường quan niệm rằng chính thể quý tộc là phải cha truyền con nối. Về điểm này chúng ta hoàn toàn khác biệt với quan niệm của Platon. Thật vậy, Platon chủ trương một chính thể quý tộc dân chủ. Thay vì phải chọn lựa những ứng cử viên do các bè phái đưa ra, người dân có thể tự đề cử mình bằng cách học hỏi. Ở trong chế độ này hoàn toàn không có giai cấp, không có vấn đề cha truyền con nối, tất cả mọi tài năng đều có cơ hội phát triển đồng đều, dù là con vua chúa hay là con thứ dân cũng đều bắt đầu ngang nhau. Nếu con vua chúa mà không có khả năng cũng vẫn bị đào thải. Nếu là con thứ dân mà có đủ khả năng cũng vẫn có thể tiến tới. Đây là nền dân chủ của học đường, một nền dân chủ trăm ngàn lần đẹp đẽ hơn nền dân chủ của thùng phiếu.
Và như vậy những người cầm quyền sẽ dành tất cả nỗ lực của mình để duy trì tự do cho xứ sở. Không có vấn đề phân quyền; lập pháp, hành pháp cũng như tư pháp đều tập trung vào một nhóm người, ngay cả nguyên tắc pháp trị cũng không thể làm cho họ bó tay trước những tình thế đặc biệt. Quyền hành của họ là một thứ quyền hành vừa thông minh, vừa mềm dẻo, vừa không có giới hạn.
Làm sao có thể tìm ra những người có đủ sự thông minh và mềm dẻo ? Adeimantus ( một nhân vật trong tác phẩm của Platon ) quan niệm rằng triết gia cũng có thể lầm lạc và ích kỷ, những người này đôi khi trở thành kỳ dị và hoàn toàn vô dụng trong xã hội. Quan niệm này có thể áp dụng đối với một số người trong xã hội ngày nay. Platon đã nghĩ đến vấn đề này và chủ trương một lối giáo dục thực tế, đi đôi với đời sống, song hành với một nền học vấn uyên thâm. Hậu quả của phương pháp nầy là đào tạo những phần tử nhìn xa thấy rộng và ưa hoạt động. Platon quan niệm triết lý là một nền văn hoá hoạt động kết hợp được sự khôn ngoan sáng suốt và nhu cầu hoạt động của con người. Trong lãnh vực này Platon rất khác biệt với triết gia Kant.
Để đối phó với sự tham nhũng trong giai cấp lãnh đạo, Platon chủ trương một chế độ cộng sản triệt để: "Trong giai cấp này không ai được quyền có của riêng ngoài những vật dụng tối cần thiết cho đời sống. Họ không được có nhà riêng có cửa khoá, vật dụng và đồ ăn uống chỉ vừa đủ cho một chiến sĩ lâm trận. Họ lãnh một số phụ cấp vừa đủ ăn và sống đời sống tập thể giống như những quân nhân trong doanh trại. Họ không cần có vàng bạc vì giá trị bản thân họ quý hơn vàng bạc. Họ không cần phải động đến các thứ đó hoặc đeo chúng vào người. Trong những điều kiện ấy họ mới có thể duy trì được nước. Nếu trái lại họ ham mua nhà, đất hoặc tích trữ tiền bạc, họ sẽ trở nên những người chủ nhà hoặc chủ nông trại thay vì phải là những người giữ nước. Họ sẽ trở nên kẻ thù của những người khác. Sự căm thù và những âm mưu làm hại nhau là những mầm móng phá tan xã hội từ bên trong, hiệu quả hơn những kẻ thù từ bên ngoài".
Lối sống kể trên làm cho giai cấp lãnh đạo không nghĩ đến việc bè phái mà chỉ nghĩ đến ích lợi chung. Họ không thiếu thốn, không cần lo nghĩ về những vấn đề kinh tế nhưng đồng thời họ cũng không có cơ hội để tham nhũng và đeo đuổi những khát vọng cá nhân. Họ sẽ ăn chung với nhau, ngủ chung với nhau trong một đời sống giản dị. Quyền lực của họ sẽ không làm hại kẻ khác, phần thưởng độc nhất của họ là niềm tự hào đã giúp ích cho xã hội. Chắc chắn sẽ có những người bằng lòng sống một đời sống như vậy, họ sẽ đánh giá một đời sống tận tụy cho xứ sở cao hơn những món lợi kinh tế. Do đó sẽ không còn những phe phái cấu xé nhau vì địa vị.
Những người vợ ở nhà thì sao ? Các bà này có chịu hy sinh những xa hoa của đời sống không ? - Giai cấp lãnh đạo sẽ không có vợ, chế độ cộng sản bao gồm cả những người vợ. Chẳng những họ không tìm cái lợi cho bản thân mà còn không tìm cái lợi cho gia đình. Họ không bị các bà vợ thúc giục vơ vét của cải, họ tận tâm với xã hội chứ không phải với một người. Những đứa con sinh ra cũng không thể gọi là con của người nào. Tất cả hài nhi đều phải rời mẹ từ khi mới lọt lòng và được nuôi nấng chung, không ai được giành quyền sở hữu trên những hài nhi ấy. Tất cả những người mẹ đều chăm sóc cho toàn thể những người con. Tình huynh đệ giữa những đứa trẻ này sẽ nẩy nở vô cùng tốt đẹp. Tất cả những đứa con trai đều là anh em, tất cả những đứa con gái đều là chị em, tất cả những người đàn ông đều là cha, tất cả những người đàn bà đều là mẹ.
Tìm đâu ra những người đàn bà ấy ? - Một số sẽ tuyển dụng trong những giai cấp khác, một số sẽ từ giai cấp lãnh đạo lớn lên. Trong xã hội nầy sẽ không có vấn đề phân chia nam nữ nhất là trong lãnh vực giáo dục. Con gái cũng có đầy đủ cơ hội học hỏi như con trai và có thể đảm nhận những chức vụ vao nhất trong xã hội. Khi Glaucon ( một nhân vật trong tác phẩm của Platon ) nêu ra ý kiến rằng nếu để cho phái nữ tham gia chính trị thì nguyên tắc phân công sẽ bị xâm phạm, Platon trả lời rằng nguyên tắc phân công căn cứ trên khả năng không phải trên điều kiện sinh lý. Nếu một người đàn bà tỏ ra có khả năng trong lãnh vực chính trị, hãy để cho bà ta làm chính trị. Nếu một người đàn ông có khả năng rửa chén, hãy để cho ông ta rửa chén.
Sung công phụ nữ không phải là giao hợp bừa bãi. Ngay trong lãnh vực này cũng phải có kế hoạch và kiểm soát. Cần phải rút kinh nghiệm trong kỹ thuật nuôi súc vật: người ta đã thành công trong việc pha giống bò để có những con bò to lớn khoẻ mạnh, tại sao người ta không áp dụng những kỹ thuật tương tự trong việc đào tạo giống người. Cho đứa trẻ một nền giáo dục thích hợp chưa đủ, cần phải cho nó một giống tốt. Sự giáo dục phải bắt đầu trước khi đứa bé ra đời. Vì lẽ đó, không một người đàn ông hoặc đàn bà nào được phép gầy giống và sinh đẻ nếu họ không hoàn toàn khoẻ mạnh. Muốn làm giá thú trước hết phải có chứng chỉ sức khoẻ. Người đàn ông chỉ được phép gây giống nếu trên 30 tuổi và dưới 45 tuổi. Người đàn bà chỉ được phép sinh đẻ nếu trên 20 tuổi và dưới 40 tuổi. Những người đàn ông khoẻ mạnh trên 35 tuổi mà không chịu lập gia đình sẽ bị đánh thuế nặng. Những hài nhi ra đời một cách bất hợp pháp hoặc tàn tật ốm yếu sẽ bị thủ tiêu. Sự giao hợp được tự do ngoài những thời kỳ cho phép với điều kiện là phải phá thai. Hôn thú giữa những người bà con sẽ bị cấm vì con cái sinh ra không được khoẻ mạnh. "Những phần tử ưu tú nhất trong phái nam cũng như trong phái nữ sẽ được giao hợp càng nhiều càng tốt. Những phần tử yếu kém chỉ được giao hợp với nhau. Tuy nhiên chỉ những hài nhi do những phần tử ưu tú sinh ra mới được nuôi dưỡng. Đó là phương pháp duy nhất để có một giống nòi ưu tú !"
Một xã hội như vậy cần phải được bảo vệ chống với kẻ thù bên trong lẫn bên ngoài. Cần phải sẵn sàng để chiến thắng. Xã hội của chúng ta lẽ cố nhiên là hiếu hoà và giữ mức độ dân số phù hợp với những phương tiện sinh sống. Nhưng các nước láng giềng có thể thèm thuồng sự thịnh vượng nầy và đem quân qua cướp phá. Vì lẽ đó chúng ta sẽ có một giai cấp chiến sĩ sống một cuộc đời khắc kỷ giống như giai cấp lãnh đạo và cũng do dân chúng chu cấp. Đồng thời tất cả mọi biện pháp phải được thi hành để tránh chiến tranh. Nguyên do thứ nhất của chiến tranh là dân số quá đông, nguyên do thứ hai là sự buôn bán giữa các nước. Thật vậy, sự cạnh tranh trong lãnh vực buôn bán thật ra là một hình thức chiến tranh. Vì lẽ đó xã hội của chúng ta cần phải ở sâu trong đất liền để không có điều kiện phát triển ngoại thương. "Đại dương làm cho một quốc gia tràn ngập hàng hoá cùng với những kẻ làm tiền, những sự mua bán đổi chác nó làm cho con người quen với tánh tham lam và gian xảo. Nền ngoại thương đòi hỏi một hạm đội để bảo vệ, và hạm đội là mầm móng của chiến tranh. Trong tất cả các trường hợp, chiến tranh là trách nhiệm của một thiểu số trong khi đại đa số quần chúng là bạn. Hình thức chiến tranh tệ hại nhất là nội chiến, giữa người Hy lạp với người Hy lạp. Nếu tất cả các người Hy lạp biết đoàn kết thành một liên minh thì họ có thể tránh được sự đô hộ của ngoại bang.
Cơ cấu chính trị của chúng ta sẽ do một nhóm lãnh đạo, nhóm này được bảo vệ bởi các quân nhân và sau cùng là các nhóm người buôn bán, làm kỹ nghệ, làm ruộng để nâng đỡ hai nhóm trên. Chỉ có nhóm thứ ba nầy mới được có của cải riêng, vợ chồng riêng, con cái riêng. Tuy nhiên các ngành thương mãi và canh nông sẽ do nhóm lãnh đạo điều khiển để tránh những trường hợp quá giàu hoặc quá nghèo, những người nào có của cải gấp 4 lần trung bình phải nộp số thặng dư cho nhà nước, việc cho vay nặng lãi bị cấm và tiền lời bị hạn chế. Chế độ cộng sản triệt để áp dụng cho giai cấp lãnh đạo không thể áp dụng cho giai cấp kinh tế. Đặc điểm của giai cấp nầy là tánh ưa vơ vét và cạnh tranh, chỉ có một số ít có tâm hồn cao thượng hơn, còn phần đông chỉ lo chỉ lo chạy theo món lợi thay vì phải chạy theo chân lý và lẽ phải. Những kẻ chạy theo tài lợi không đủ tư cách để trị nước và chúng ta hy vọng rằng nếu giai cấp lãnh đạo sống giản dị và làm việc hữu hiệu thì giai cấp kinh tế sẽ vui lòng chịu nhận sự lãnh đạo của họ. Nói tóm lại một xã hội lý tưởng là một xã hội trong đó mỗi giai cấp sống theo bản tánh tự nhiên của mình và không giai cấp nào động chạm đến quyền lợi của giai cấp khác. Trái lại tất cả ba giai cấp đều phối hợp để hợp thành một xã hội điều hoà, một quốc gia công bình.
9. GIẢI PHÁP LUÂN LÝ:
Chúng ta đã bàn về giải pháp chính trị. Bây giờ chúng ta sẵn sàng để trả lời câu hỏi đã đặt ra: - Công bằng là gì ?
Trên đời nầy chỉ có ba vật đáng giá, đó là công bằng, mỹ thuật và chân lý. Trong ba ý niệm ấy, không có một ý niệm nào có thể định nghĩa được. Bốn trăm năm sau Platon, một viên chức La mã, Judea, cũng đặt ra câu hỏi: Sự thật là gì ? Và ngày hôm nay các triết gia cũng không thể cho chúng ta biết mỹ thuật là gì ?
Đối với ý niệm công bằng Platon cho chúng ta một định nghĩa như sau: Công bằng là có hoặc làm cái gì thuộc về ta. Định nghĩa này có vẻ làm ta thất vọng. Sau ba cuộc tham luận chúng ta chờ mong một định nghĩa huyền diệu. Định nghĩa của Platon diễn tả một cách giản dị rằng công bằng là mỗi người nhận được cái gì mình đã làm ra và làm công việc thích hợp với bản tánh của mình nhất. Một người công bằng là một người ở đúng vị trí của mình, làm theo đúng bản tánh của mình và trả lại cho xã hội những cái gì họ đã nhận của xã hội. Một xã hội gồm có những người công bằng là một xã hội điều hoà và hữu hiệu vì mỗi phần tử ở đúng vị trí của họ, làm theo đúng bản tính của họ giống như những nhạc khí trong một ban nhạc toàn hảo. Sự công bằng trong một xã hội là một yếu tố điều hoà sự di chuyển của các tinh tú trên bầu trời. Có công bằng xã hội mới có thể tồn tại. Nếu con người không giữ đúng vị trí của mình, nếu giai cấp kinh tế áp đảo giai cấp lãnh đạo, nếu giai cấp quân nhân đòi cầm quyền thì sự điều hoà đã bị tổn thương, xã hội sẽ bị phân hoá và tan rã. Công bằng chính là sự phối hợp tuyệt hảo.
Đối với cá nhân, công bằng cũng là một sự phối hợp của những bản năng, mỗi bản năng giữ đúng vị trí của mình và làm đúng phận sự của nó. Mỗi một cá nhân là một sự phối hợp của các ước muốn, các tình cảm và các ý nghĩ. Nếu các yếu tố ấy được điều hoà thì cá nhân sẽ được tồn tại và thành công. Nếu các yếu tố ấy không giữ đúng vị trí của mình, nếu để tình cảm hướng dẫn hành động con người sẽ mất thăng bằng. Công bằng là sự ổn cố của tâm hồn. Tâm hồn cần có công bằng cũng như thể xác cần có sức khoẻ. Tất cả sự xấu xa trên đời đều do sự thiếu điều hoà nghĩa là thiếu công bằng : giữa người và vũ trụ, giữa người và người, giữa những yếu tố trong tâm hồn của một người.
Theo Platon thì công bằng chẳng những là sức mạnh mà còn là sức mạnh điều hoà. Công bằng không phải là quyền lực của kẻ mạnh mà là sự điều hoà của toàn thể. Một người ra khỏi vị trí của mình có thể gặt hái một vài điều lợi, người cuối cùng họ sẽ bị chế tài một cách tự nhiên. Chiếc đũa của nhạc trưởng luôn luôn kéo những nhạc khí vào đúng âm điệu và tiết nhịp. Vị sĩ quan đảo Corse có thể muốn đặt châu Âu dưới một nền quân chủ chuyên chế nhưng cuối cùng ông bị đày ra một hòn đảo hoang vắng và khi đó ông mới nhận thấy rằng ông chỉ là công cụ của tạo hoá.
Những ý niệm trên không có gì mới mẻ hoặc lạ lùng và chúng ta có thể nghi ngờ những lý thuyết tự cho là mới mẻ trong lãnh vực triết học. Chân lý có thể mỗi ngày khoác một bộ áo khác nhưng dưới bộ áo ấy chân lý luôn luôn không thay đổi. Trong lãnh vực luân lý, chúng ta không nên chờ đợi một cái gì mới lạ: tất cả các ý niệm luân lý đều quay xung quanh sự điều hoà của tập thể. Luân lý bắt đầu với tập thể, với sự tương quan, với sự tổ chức. Đời sống trong xã hội đòi hỏi sự nhượng bộ của một ít quyền lợi cá nhân để góp phần vào trật tự chung. Một xã hội sẽ được tồn tại nhờ khả năng hợp tác của những phần tử trong xã hội ấy. Còn sự hợp tác nào đẹp đẽ hơn khi mỗi cá nhân có thể làm việc theo đúng bản tánh của mình, đó là mục tiêu mà tất cả các xã hội phải tìm đến. Đạo đức đối với Gia tô giáo là sự thương yêu kẻ yếu hèn, đối với Nietzsche là sự can đảm của kẻ mạnh, đối với Platon là sự điều hoà của tập thể. Rất có thể cả ba định nghĩa đều đúng và phải được phối hợp với nhau nhưng chúng ta có thể tự hỏi trong ba định nghĩa ấy, định nghĩa nào là căn bản ?
10. PHÊ BÌNH:
Chúng ta có thể nói gì về quốc gia lý tưởng của Platon? Một quốc gia như vậy có thể được thực hiên không ? Nếu không thực hiện được hoàn toàn chúng ta có thể áp dụng một phần nào vào đời sống chính trị hiện nay không ? Có nơi nào đã áp dụng lý tưởng của Platon hoặc toàn thể hoặc một phần nào không ?
Câu hỏi chót trên đây có thể được trả lời một cách thuận lợi cho Platon: Trong suốt 1000 năm Âu châu bị đặt dưới quyền cai trị của một giai cấp không khác gì giai cấp cầm quyền lý tưởng mà Platon đã mô tả. Trong thời kỳ trung cổ người ta thường phân chia dân chúng thành 3 giai cấp : đó là giai cấp cần lao, giai cấp quân nhân và giai cấp giáo sĩ. Giai cấp sau cùng này, mặc dù chỉ là một thiểu số đã nắm trong tay tất cả quyền hành và đã cai trị một cách gần như tuyệt đối một phần nửa lãnh thổ Âu châu. Giai cấp giáo sĩ này được lên cầm quyền không phải do sự tấn phong của dân chúng mà chính là do công trình nghiên cứu học hỏi, nếp sống đạo đức và giản dị. Giai cấp giáo sĩ cũng không bị ràng buộc vì nếp sống gia đình và trong nhiều trường hợp họ được hưởng nhiều tự do trong vấn đề luyến ái mà Platon chủ trương nên dành cho giai cấp lãnh đạo. Nếp sống độc thân của giai cấp giáo sĩ là một yếu tố tâm lý rất thuận lợi: phần thì họ không bị cản trở bởi sự ích kỷ dành cho gia đình, phần thì dân chúng coi họ như những con người đặc biệt đứng trên sự kêu gọi xác thịt.
Các thủ đoạn chính trị của giáo hội Thiên chúa giáo là sự áp dụng những huyền thoại mà Platon đã đề ra: Ý niệm về thiên đàng, địa ngục có những liên hệ mật thiết với những ý kiến trình bày trong cuốn Cộng hoà. Với một mớ lý thuyết như trên, dân chúng Âu châu đã được cai trị mà không cần dùng đến vũ lực, họ sẵn sàng chấp nhận sự cai trị ấy và không bao giờ đòi hỏi tham gia trực tiếp vào bộ máy chính quyền. Những giai cấp buôn bán và quân nhân, những nhóm lẻ tẻ ở địa phương, tất cả đều một lòng tùng phục La Mã. Giai cấp lãnh đạo thời ấy thật khôn khéo, họ đã xây dựng nên một tổ chức cai trị vững mạnh và lâu dài nhất thế giới.
Những giáo phái cai trị xứ Paraguay trước đây là những giai cấp lãnh đạo xứng đáng với lý tưởng của Platon. Đó là một giai cấp giáo phẩm thượng lưu vừa biết nhiều hiểu rộng, vừa có biệt tài ở giữa một đám đông dân chúng bán khai. Sau cách mạng tháng 10 năm 1917 những nhà lãnh đạo cộng sản ở Nga xô cũng sống cuộc đời mà Platon đã mô tả. Họ là một thiểu số cấu kết với nhau bằng một niềm tin mãnh liệt. Họ sợ sự khai trừ khỏi đảng hơn là sợ chết, hoàn toàn hiến thân cho đảng, chết vì đảng không khác gì các thánh tử đạo, họ sống một cuộc đời giản dị đơn sơ trong khi cầm quyền cai trị một nửa diện tích Âu châu.
Những ví dụ kể trên chứng tỏ rằng lý tưởng của Platon có thể thực hiện được và chính Platon cũng căn cứ lý thuyết của mình trên các nhận xét thực tế trong các cuộc du lịch của ông. Ông đã để ý đến giai cấp lãnh đạo thời ấy gồm một thiểu số giáo sĩ. Platon đã so sánh chính thể Ai cập với chính thể tại thành Athènes và cảm thấy Athènes còn nhiều khiếm khuyết. Tại nước Ý ông có dịp quan sát một nhóm lãnh đạo đúng theo chế độ cộng sản và ăn chay trường. Nhóm này cầm quyền khá lâu và khá vững. Ở Sparte ông cũng quan sát những điều kiện tương tự: Nhóm lãnh đạo ở đây sống một cuộc đời khắc khổ tập thể, họ rất chú trọng đền việc cải thiện nòi giống, chỉ những kẻ khoẻ mạnh can đảm thông minh mới được quyền lập gia đình và sinh con cái. Một tác giả đương thời tên là Euripides cũng đã chủ xướng một nếp sống cộng sản triệt để. Giải phóng nô lệ, sung công phụ nữ, bình định các lãnh thổ Hy lạp. Nói tóm lại, khi đề ra chương trình của mình Platon không coi đó là một chương trình hão huyền, xa vời thực tế.
Tuy nhiên, những kẻ chỉ trích Platon từ thời Aristote đến nay cũng đã đưa ra nhiều luận cứ đáng để ý, Aristote nói rằng những đề nghị của Platon đã xuất hiện nhiều lần trong lịch sử nhân loại. Nói rằng tất cả mọi người là anh em thật là một điều hay ho trên lý tưởng nhưng trên thực tế khi cho rằng tất cả mọi người là anh em thì mối thâm tình giữa những người anh em thật sự không còn ý nghĩa nữa. Đối với vấn đề cộng sản cũng vậy, nó sẽ làm cho tinh thần trách nhiệm bị lu mờ. Khi tất cả của cải đều thuộc quyền sở hữu của tất cả mọi người thì sẽ không còn ai lo giữ gìn của cải ấy. Sau cùng, chế độ cộng sản bắt buộc dân chúng sống cuộc đời tập thể nghĩa là giết chế sự độc đáo cá nhân và sự tự do của đời tư, chỉ những kẻ giác ngộ mới có thể sống đời sống tập thể mà không gây ra những xích mích nan giải. Đem áp dụng lối sống ấy cho đại đa số quần chúng là một điều sai lầm; không thể bắt dân chúng sống theo mức sống đạo đức quá cao so với mức trung bình, không thể bắt dân chúng hấp thụ một nền giáo dục chỉ thích hợp với một thiểu số xuất chúng. Trái lại chúng ta phải nhắm đến một lối sống trung bình thích hợp với đại đa số quần chúng và một chính thể mà đại đa số có thể chấp nhận.
Những lời chỉ trích của Aristote, người học trò thông minh nhất của Platon, được nhiều triết gia hưởng ứng. Platon khinh thường sức mạnh của tập tục đã được xây dựng lâu đời như phong tục độc thê, ông không tiên liệu tánh ghen tuông tự nhiên của người đàn ông, tình mẫu tử của người đàn bà. Khi ông muốn phá vỡ đời sống gia đình, ông đã phá vỡ những điều kiện cho một nếp sống đạo đức. Chế độ cộng sản chẳng qua cũng chỉ là một chế độ gia đình được nới rộng cho toàn dân, khi đả kích gia đình Platon không biết rằng ông đã phá vỡ nền móng của xã hội lý tưởng mà ông sắp xây cất.
Những lời chỉ trích kể trên không phải hoàn toàn xa lạ đối với Platon. Nếp sống cộng sản do ông chủ xướng không áp dụng đối với quảng đại quần chúng. Platon biết rằng chỉ một thiểu số giác ngộ mới đủ đức tính tinh thần để sống một cuộc đời lãnh đạo, chỉ những người lãnh đạo mới xem nhau như anh em, chỉ những người lãnh đạo mới từ bỏ quyền tư hữu. Đa số dân chúng còn lại được quyền sống theo các tập tục cổ xưa, họ được phép có của riêng, được phép sống xa hoa, được phép cạnh tranh, họ có thể sống với gia đình, chồng đâu vợ đó, mẹ đâu con đó v.v. Đối với giai cấp lãnh đạo họ phải có tinh thần danh dự và sự hãnh diện của giai cấp, chính những yếu tố này cho phép họ sống cuộc đời khắc khổ tập thể. Đối với tình mẫu tử, chúng ta phải công nhận rằng tình nầy không mãnh liệt khi đứa trẻ chưa sinh ra hoặc chưa lớn, người mẹ trung bình chấp nhận đứa hài nhi sơ sanh không phải bằng sự vui mừng mà bằng sự nhẫn nhục. Tình mẫu tử không phải có ngay lúc đó mà chỉ lớn dần cùng với đứa con với sự săn sóc của người mẹ, nó trở thành một mối tình lớn khi đứa con trở thành sự đúc kết của công lao người mẹ.
Nhiều luận điệu chỉ trích khác dựa trên yếu tố kinh tế. Người ta trách Platon quá chú trọng đến sự phân chia giai cấp. Sự thật thì nguyên do của sự phân chia là những mâu thuẫn kinh tế trong xã hội. Trong chính thể của Platon giai cấp lãnh đạo đã tự ý từ bỏ sự cạnh tranh để vơ vét của cải. Chúng ta có thể kết luận rằng giai cấp lãnh đạo của Platon là một giai cấp có quyền mà không có trách nhiệm chăng ? - Không phải như vậy, họ có quyền chính trị và quyền điều khiển nhưng họ không có quyền lực kinh tế. Giai cấp kinh tế có thể từ chối cấp dưỡng nếu họ bất bình với giai cấp lãnh đạo, cũng như ngày nay quốc hội kiểm soát hành pháp bằng cách biểu quyết ngân sách. Một số người khác thắc mắc làm sao giai cấp lãnh đạo có thể giữ vững được quyền hành nếu không kiểm soát được những lực lượng kinh tế ? Họ dựa vào lý thuyết của Hamilton và Marx cho rằng quyền lực chính trị chỉ là hình ảnh của kinh tế, quyền lực chính trị sẽ không còn gì một khi quyền lực kinh tế đã vào tay một nhóm khác như đã xảy ra tại Âu châu trong thế kỷ thứ 18.
Đó là một lý lẽ rất căn bản, tuy nhiên chúng ta thấy rằng quyền lực của giáo hội Thiên chúa giáo La Mã đã có một thời rất oanh liệt không phải nhờ thế lực của kim tiền mà nhờ vào sự tín ngưỡng của dân chúng. Quyền lực của giáo hội ngày xưa một phần là do ở trạng thái nông nghiệp: Những nhà nông thường dễ mê tín vì nghề nghiệp của họ tuỳ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Khi các điều kiện kinh tế thay đổi, khi nền kinh tế kỹ nghệ bắt đầu thay thế cho nền kinh tế nông nghiệp, thì quyền lực của giáo hội bắt đầu sút giảm. Quyền lực chính trị phải luôn luôn được điều chỉnh để ăn khớp với tình trạng kinh tế. Giai cấp cầm quyền của Platon không chóng thì chầy sẽ bị phụ thuộc vào giai cấp sản xuất đã nuôi dưỡng nó. Dù giai cấp cầm quyền nắm trong tay tất cả quân lực cũng không thoát khỏi sự lệ thuộc ấy. Quan niệm chính yếu của Platon có lẽ là muốn chứng minh rằng dù cho các lực lượng kinh tế quyết định chính sách quốc gia, những kẻ thi hành chính sách này phải là những nhà chuyên môn, không thể để những người thương gia, kỹ nghệ gia cầm quyền chính trị vì họ chưa được huấn luyện trong lãnh vực này.
Người ta thường chê trách rằng Platon chưa ý thức được sự đổi thay thăng trầm của tất cả các chế độ kinh tế, văn hoá cũng như chính trị : Ông phân loại người thành những giai cấp không khác gì nhà côn trùng học phân loại các côn trùng. Ông còn tạo ra các huyền thoại để bắt buộc dân chúng tin tưởng vào sự phân loại ấy. Quôc gia của Platon là một quốc gia thủ cựu, thuật chính trị của Platon thiếu sự tế nhị mềm dẻo, nó đề cao trật tự mà không đề cao sự tự do, nó thích cái đẹp nhưng không biết nuôi dưỡng các nghệ sĩ.
Platon chủ trương rằng những kẻ cầm quyền phải là những kẻ ưu tú nhất, ông còn thêm rằng những kẻ cầm quyền phải được huấn luyện chu đáo. Đó là hai ý kiến đã được đem ra bàn cãi và đã được áp dụng nhiều lần trong lịch sử; sau cùng cần phải nói thêm rằng quốc gia lý tưởng của Platon không nhất thiết phải là một quốc gia trên thực tế, nó chỉ ấn định đường hướng cho các quốc gia khác noi theo. Tuy nhiên đã có lần Platon muốn thực hiện một quốc gia lý tưởng : Đó là vào khoảng năm 384 tTL, Platon được một quốc vương mời làm cố vấn để thực hiện những cải cách sâu rộng. Platon nhận lời nhưng lẽ cố nhiên việc của ông không thành tựu vì quốc vương kia không muốn giảm bớt quyền hạn của mình. Tục truyền rằng Platon bị kết tội khi quân và bị đem bán làm nô lệ.
Những năm cuối cùng trong đời của Platon có thể gọi là những năm hạnh phúc. Môn đệ của ông nhiều người giữ địa vị cao trong xã hội. Ông được các môn đệ tìm đến vì ông luôn luôn giữ được tinh thần sáng suốt cởi mở thông cảm với tất cả mọi người. Năm 80 tuổi, Platon được một môn đệ mời đi dự đám cưới. Khi tiệc gần tàn Platon lui vào nhà trong để nằm nghỉ. Sáng sớm người ta đến thức ông dậy thì thấy rằng ông đã qua đời. Đám táng của ông được tổ chức rất trọng thể với rất nhiều người tham dự.
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 |