Nhập Hạnh Bồ Tát

date
21/10/2020
Bộ luận Nhập Bồ Tát Hạnh là một kiệt tác của Phật giáo Ấn Ðộ, không những trên phương diện tư tưởng, tu chứng, mà còn cả trên phương diện văn học. Nó đã đem lại niềm vui cho biết bao nhiêu thế hệ. Tương truyền ở Ấn Ðộ đã có hơn một trăm bộ chú thích cho bộ luận này, và ở Tây Tạng nó đã trở thành một trong sáu bộ luận "gối đầu" cho những kẻ học Phật.

Bodhicaryàvatàra

NHẬP HẠNH BỒ TÁT

Sàntideva (Tôn giả Tịch Thiên)

Việt dịch:  Nguyên Hiển

Hiệu đính: Lê Triều Phương

Mục Lục

LỜI NÓI ĐẦU

Lời thưa về việc hiệu đính

TIỂU SỬ TÔN GIẢ TỊCH THIÊN (SÀNTIDEVA)

CHƯƠNG I: LỢI ÍCH CỦA TÂM BỒ ĐỀ

CHƯƠNG II: SÁM HỐI TỘI NGHIỆP

CHƯƠNG III: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

CHƯƠNG IV: THỰC HÀNH TÂM BỒ ĐỀ

CHƯƠNG V: CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC

CHƯƠNG VI: NHẪN NHỤC

CHƯƠNG VII: TINH TẤN

CHƯƠNG VIII: THIỀN QUÁN

CHƯƠNG IX: TRÍ TUỆ

CHƯƠNG X : HỒI HƯỚNG

LỜI NÓI ĐẦU

Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát. Đọc tụng luận này, hành giả có thêm hùng tâm dũng chí để giúp Đạo, cứu đời.

Dịch giả đã tham cứu các bản dịch dưới đây:

- Bản Hán dịch của Trần Ngọc Giao

- Bản Pháp dịch của Georges Driessens

- Bản Anh dịch của Kate Crosby và Andrew Skilton

- Bản Việt dịch của Thích Nữ Trí Hải .

Luận này là sách gối đầu giường của Tăng, Ni, Phật tử theo lối tu Đại thừa ở Ấn Độ, Tây Tạng, Mông Cổ và Trung Hoa. Vì dịch theo lối thi kệ để dễ tụng đọc và dễ nhớ cho nên quá súc tích và quá ngắn gọn, vì vậy không thể tránh khỏi có chỗ vụng về và tối nghĩa. Xin chư tôn đức cùng quý Phật tử cao minh từ bi chỉ giáo để khi tái bản dịch phẩm này được hoàn chỉnh hơn. 

Xin chân thành cảm tạ hai Pháp hữu Tâm Zen và Như Pháp Trí đã giúp phần hiệu đính và hoàn thành dịch phẩm này. Xin hồi hướng công đức đến pháp giới chúng sanh thoát ly luân hồi khổ não, viên thành Phật đạo. 

California, Mùa Phật Đản 2459-2005

Nguyên Hiển  

LỜI THƯA VỀ VIỆC HIỆU ĐÍNH

Tập Luận „Nhập Hạnh Bồ Tát,“ của Tôn giả Santideva, do cư sĩ Nguyên Hiển dịch sang Việt ngữ năm 2005, theo thể kệ, đã đến tay tôi trong một hoàn cảnh đầy kỷ niệm. Năm 2005, chúng tôi bị một bệnh nặng hành hạ suốt nửa năm dài. Hàng ngày đau nhức vô cùng. Chúng tôi chưa đồng ý để bác sĩ mổ và kham nhẫn chịu đựng. Hàng ngày niệm Phật và thỉnh thoảng đọc phẩm Phổ Môn. 

Một ngày nọ, năm người bạn từ phương xa đến thăm vì muốn „tiếp sức“ cho chúng tôi. Lúc ấy chúng tôi đang nằm ở bệnh viện trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Các bạn phải trò chuyện cùng nhau nơi hành lang của bệnh viện. Cuối cùng chúng tôi gặp mặt nhau khoảng 15 phút rồi chia tay. Riêng đạo hữu Nguyên Định đã đem theo để tặng và khuyên chúng tôi nên đọc tập Luận nói trên. Chúng tôi đọc lướt qua và thấy nội dung vô cùng ý nghĩa. 

Một buổi tối, sau bữa ăn chiều, chúng tôi đọc lại tập Luận kỹ hơn. Bỗng dưng trong đầu chúng tôi vang lên âm thanh như dòng nhạc của những câu kệ trong phẩm Phổ Môn, ví dụ như:  

“Bi thế giới lôi chấn,

Từ ý diệu đại vân,

Chú cam lồ pháp vũ

Diệt trừ phiền não diệm“

hoặc

“Diệu âm, Quán thế âm,

Phạm âm, hải triều âm,

Thắng bỉ thế gian âm,

Thị cố tu thường niệm“.  

Lòng chúng tôi bỗng nổi lên cảm hứng chỉnh sửa ngay lại một số câu trong bản dịch của cư sĩ Nguyên Hiển, với ước muốn mình có riêng một bản Luận đọc nghe êm nhẹ hơn, dù không bằng những câu ví dụ trong phẩm Phổ Môn.  

Chúng tôi vừa đọc vừa ghi chép cho đến khi cảm thấy buồn ngủ. Kim đồng hồ cho biết đã hơn 2 giờ khuya. Chúng tôi vô cùng kinh ngạc: Tại sao mình đã mất cảm giác đau nhức và mệt mỏi suốt 6 tiếng đồng hồ? Có gì linh thiêng và huyền nhiệm tỏa ra từ những dòng kệ „Nhập Hạnh Bồ Tát“chăng? Chúng tôi đi ra hành lang bệnh viện để kiểm lại thì giờ. Đồng hồ cho biết đã hơn 2 giờ khuya. 

Hôm sau, đạo hữu Nguyên Châu, trong nhóm những người đã đến thăm chúng tôi, gọi điện thoại hỏi về bệnh tình. Chúng tôi thuật lại chuyện kỳ diệu đã trải qua trong đêm. Đạo hữu liền kể ngay cho tôi biết lược sử của Tôn giả Santideva và cho biết Phật tử Tây Tạng rất sùng kính Luận „Nhập Hạnh Bồ Tát“ như Phật tử châu Á sùng kính phẩm Phô Môn. Nhiều Phật tử đã cảm nhận được sức mạnh thiêng liêng toát ra từ tập Luận. Cuối cùng đạo hữu đã khuyên chúng tôi nên cố gắng „đánh bóng“ công trình việt dịch của cư sĩ Nguyên Hiển vì điều này vừa giúp cho bản thân chúng tôi giảm được sự đau khổ của thân xác trong lúc đau bệnh và biết đâu bạn bè nhờ đó mà có được một bản dịch dễ tụng hơn. Chúng tôi đã hứa sẽ theo đuổi việc „đánh bóng“ ấy. Động cơ quan trọng nhất đã thúc đẩy việc làm của chúng tôi là đạo hữu Nguyên Hiển đã cho phép chúng tôi hiệu đính lại bản dịch của anh. 

Những ngày hôm sau chúng tôi lần lượt nhận được 5 bản dịch khác do bạn bè gởi đến với lời khuyến khích làm công việc hiệu đính. Đó là bản Đức ngữ „Eintritt in das Leben zur Erleuchtung“ do G.S. Ernst Steinkellner chuyển ngữ năm 1981, ba bản Việt ngữ gồm có: „Bồ Tát Hạnh, do Thượng Tọa Thích Trí Siêu dịch năm 1990, „Nhập Bồ Tát Hạnh“ do Ni Sư Thích Nữ Trí Hải dịch năm 1998 và „Một tia chớp sáng trong đêm tối“ do đức Dalai Lama giảng giải và do Đoàn Phụng Mệnh dịch năm 1999 và bản Anh ngữ „Engaging in Bodhisattva Behavior“ do ông Alexander Berzin dịch năm 2005. Sáu bản dịch rất công phu với những chú giải rõ ràng mà chúng tôi đọc được, đã soi sáng cho chúng tôi thấy được nội dung và ý nghĩa của con đường đi của các bậc Bồ Tát.  Nơi đây, chúng tôi chân thành bày tỏ sự tri ân sâu sắc của chúng tôi đến tất các vị dịch giả và giảng giải. 

Hôm nay, sau gần một năm rưỡi, chúng tôi hoàn thành bản hiệu đính với tâm trạng khinh an, mặc dù vẫn còn nhiều khuyết điểm. Chúng tôi xin hồi hướng công đức đến tất cả chúng sinh và cầu mong cho tất cả đều đạt được mục đích giác ngộ và giải thoát. 

Chúng tôi cũng xin bày tỏ sự cám ơn sâu sắc đến hiền nội và bằng hữu đã khuyến khích và hỗ trợ việc hiệu đính, hỗ trợ tìm tài liệu, đánh vi tính và sửa lỗi chính tả.                  

Göttingen, Germany, ngày 14.01.2007

Lê Triều Phương    

TIỂU SỬ TÔN GIẢ TỊCH THIÊN (SÀNTIDEVA)

Thích Trí Siêu  (Pháp)

Theo truyền thuyết tôn giả Sàntideva sinh ở miền Nam Ấn, vùng Sri Nagara vào khoảng thế kỷ thứ 7. Ngài là thái tử con vua Surastra. Từ những kiếp quá khứ, ngài đã cúng dường phụng thờ nhiều đức Phật và đã tích tụ nhiều căn lành đưa đến giải thoát. Nhờ phước đức ấy nên ngay từ lúc ấu thơ, ngài đã nhiều lần chiêm bao thấy Văn Thù Bồ Tát.

Lớn lên, đến tuổi sắp được vua cha truyền ngôi, một hôm ngài nằm mộng thấy hai vị Bồ tát: Văn Thù và Tara. Bồ tát Văn Thù ngồi trên ngai vàng, bảo ngài rằng: ”Ở đây không có chỗ cho hai người”. Bồ tát Tara tưới nước nóng trên đầu ngài và nói rằng: ”Vương quyền chính là nước sôi bỏng của địa ngục. Ta đang tấn phong cho ngươi về nước nầy đây.”  

Tỉnh dậy, ngài hiểu rằng đó là sự khuyến cáo của hai vị Bồ tát, nên đêm hôm trước khi ngài lên ngôi, ngài rời bỏ cung thành trốn vào rừng sâu. Sau 21 ngày lang thang trong rừng, vừa khát vừa đói, ngài gặp được một con suối, sắp sửa định uống thì có một thiếu nữ xuất hiện bảo ngài đừng uống vì đó là nước độc, sau đó thiếu nữ dâng cho ngài một thứ nước thơm ngọt như cam lồ. Giải khát xong, ngài hỏi thiếu nữ: ” Cô ở đâu đến?” . Thiếu nữ trả lời: ”Ở giữa khu rừng mênh mông này là nơi thầy tôi ở, ngài rất đạo đức, từ bi và đã thành tựu phép tam muội củaVăn Thù Kim Cang Sư Lợi (Sri Manjuvajra). Tôi từ đó đến đây”.

Vừa nghe như thế, tôn giả Sàntideva mừng rỡ như kẻ nghèo bắt được vàng, yêu cầu thiếu nữ dẫn ngài đến gặp vị thầy kia. Đến nơi ngài thấy đó là một vị hành giả (Yogi) sống trong một chòi lá, ngài liền đảnh lễ, xưng tán cúng dường và cầu xin được truyền phép tam muội của Văn Thù Bồ Tát. Sau 12 năm ở đó tu tập, ngài chứng được phép tam muội trên, thấy được vị thầy kia chính là Văn Thù và thiếu nữ kia chính là Tara. Kể từ đó ngài luôn luôn được thấy Văn Thù Bồ Tát.

Sau đó ngài đi về phương Đông, xin vào làm việc trong triều của vua Pancamasimha. Nhờ tài giỏi và thông minh nên ngài được vua trọng vọng cho làm Thừa Tướng. Để tỏ lòng thành kính nhớ ơn vị thần linh chủ hộ của mình, tức Văn Thù Bồ Tát, ngài luôn đeo trên mình một thanh kiếm gỗ. Ngài giúp vua trị vì đúng theo Phật pháp và truyền dạy nhiều kỹ nghệ mới lạ. Điều đó khiến các vị đại thần khác ganh tức, tìm cách gièm pha và hãm hại ngài. Họ bảo vua rằng: ”Thừa tướng là một người gian xảo, luôn đeo trên mình một thanh kiếm mà không bao giờ rút ra cho ai xem cả. Chúng tôi biết thanh kiếm ấy làm bằng gỗ. Gặp lúc nguy biến làm sao Thừa tướng có thể cứu nguy cho Bệ hạ được? Xin Bệ hạ hãy khám nghiệm lại”. Vua tin lời cho triệu Thừa tướng vào bắt phải rút kiếm ra khỏi vỏ cho vua xem. Thừa tướng nói: ” Kiếm của tôi, Bệ hạ không thể nhìn được, nếu không Bệ hạ sẽ hối hận”. Nghe vậy, vua càng nghi ngờ nhất quyết đòi xem.

Cuối cùng, Thừa tướng nói với vua: ”Nếu Bệ hạ nhất quyết muốn xem thì hãy theo tôi đến chỗ vắng, lấy tay che mắt phải lại, chỉ nhìn bằng mắt trái thôi”. Vua chấp thuận và Thừa tướng rút kiếm ra, hào quang lóe lên quá mạnh khiến con mắt trái của vua rơi xuống đất. Vua liền ăn năn hối hận, biết ngài là một người đắc đạo, một Đại thành tựu giả nên cầu xin sám hối. Biết vua đã ăn năn, Thừa tướng nhặt mắt trái của vua bỏ vào tròng lại khiến vua khỏi mù.

Sau đó tôn giả bỏ chức Thừa tướng, tìm đến tu viện Nalanda, xuất gia thọ giới, được đặt tên là Sàntideva. Sau khi nghe hết ba tạng kinh điển, tôn giả thầm biên soạn 3 bộ luận: Siksàsamuccaya, Sùtrasamuccaya và Bodhicaryàvatàra.

Ngài tu mật hạnh, học trực tiếp với Văn Thù Bồ tát trong thiền định. Tất cả thời ăn, ngủ, đi, đứng, ngài đều thiền quán về Thanh Quang. Tuy vậy, chúng tăng bên ngoài thấy ngài chỉ ăn với ngủ, không chịu văn, tư, tu gì cả. Thấy thế một số Thượng toạ học giả họp nhau lại định tống khứ ngài ra khỏi tu viện. Có người cho ý kiến:  Nếu chúng ta họp lại, bắt mỗi người phải tuần tự trùng tuyên lại Kinh Luận ; ban đầu ngài từ chối, nói rằng không biết gì. Chúng tăng muốn làm nhục ngài nên làm bộ nài nỉ, cuối cùng ngài nói: ”Nếu vậy, phải làm cho tôi một toà sư tử tôi mới trùng tuyên”. Nghe vậy có vài người đâm ra nghi ngờ, nhưng đa số chấp thuận vì tin rằng ngài không thể trùng tuyên Kinh Luận gì được.

Sau khi lên ngồi toà sư tử, ngài hỏi: ”Các vị muốn tôi tụng lại Kinh Luận đã có từ trước hay những sáng tác mới sau này?”. Vì muốn chế giễu ngài nên đại chúng nói: ”Những sáng tác mới sau này”. Thế là ngài bắt đầu tụng lên Bồ Tát Hạnh (Bodhisattava-caryavatara). Khi tụng đến câu: Khi Có và Không không còn khởi lên trong tâm…... thì ngài bay lên hư không rồi từ từ biến mất, nhưng tiếng của ngài còn vọng lại cho đến câu kệ cuối cùng của Bồ Tát Hạnh. Không thấy ngài nữa, Tăng chúng hối hận trở về phòng ngài tìm kiếm, thấy trên bàn để lại ba quyển: Sutràsamuccaya (Tập kinh luận), Siksàsamuccaya (Tập Bồ Tát học luận) và Bodhicaryàvatàra (Nhập Bồ đề hành luận).      

CHƯƠNG I: LỢI ÍCH CỦA TÂM BỒ ĐỀ

Đối tượng và mục đích

1. Con trân trọng cúi đầu

Đảnh lễ các đức Phật (1)

Cùng các vị Thừa Kế (2)

Và những bậc đáng kính.

Con nương lời Phật dạy

Xin nêu lên ngắn gọn

Lối vào hạnh Bồ Tát

2. Luận này nghĩa chẳng mới

Vần điệu cũng không hay

Chẳng dám vì lợi tha

Viết ra để nhắc nhở

Và thấm nhuần tâm mình.

3. Nhờ sự nhắc nhở này

Mà tín tâm tăng trưởng

Ai cùng một tin tưởng

Cũng được lợi ích nhiều.

Lợi ích của tâm bồ đề

4. Hạnh phúc thay gặp duyên

Sinh ra thân con người

Nay không nhân cơ hội

Để tu hành giải thoát

Sau này tìm đâu ra.

5. Như đêm mây dày dặc

Được lằn chớp chiếu soi

Nhờ thần lực chư Phật

Tâm lành thoảng khởi lên.

6. Đức hạnh rất yếu ớt

Trước sức mạnh điều xấu

Chỉ có tâm Bồ đề

Mới cưỡng lại, đứng vững.

7. Trải nhiều kiếp tư duy

Phật thấy tâm Bồ đề

Có công đức vô lượng

Cứu vô số chúng sinh

Thoát ra ngoài biển khổ.

8. Muốn thoát khổ của đời

Trừ tai họa muôn loài

Muốn được chân hạnh phúc

Chớ rời tâm bồ đề

9. Người người trong sanh tử

Phát được tâm bồ đề

Được gọi là con Phật

Xứng đáng được tôn kính

10. Nước phép tâm bồ đề

Sẽ biến thân ô trược

Thành thân Phật vô giá

Hãy giữ Bồ đề tâm

11. Đấng Đạo sư thấy rõ

Tâm Bồ đề qúi báu

Muốn vượt thoát ba cõi

Phải giữ vững tâm này.

12. Làm lành như cây chuối

Quả hết rồi héo khô

Tâm Bồ đề to lớn

Như đại thụ xum xuê

Luôn sinh quả tươi tốt.

13. Người đời phạm tội nặng

Nhờ thế lực che chở

Biết sự nghiệp đã tạo

Sao chẳng tìm chỗ nương?

14. Đức Di Lặc đã giảng

cho Thiện tài biết rằng

Tâm Bồ đề kỳ diệu

Như lửa thời hoại kiếp

Đốt tan bao tội nặng

Chỉ trong một sát na.

Hai loại tâm bồ đề

15. Tâm bồ đề bao gồm

Hai nguyện để tu tập:

Trước là nguyện phát tâm

Sau thực hành tâm ấy.

16. Ai cũng đều biết rằng

“Muốn đi“ khác với “đi“

Người trí nên biết rõ

Sự khác biệt như vậy.

17. Nguyện phát tâm bồ đề

Tuy sinh kết quả lớn

Song không thể sánh bằng

Nguyện thực hiện tâm này.

Ca ngợi tâm bồ đề

18-19. Những ai đã quyết tâm

Cứu độ mọi chúng sinh

Thì không thể ngừng nghỉ

Thực hiện tâm bồ đề.

Từ lúc ấy trở đi

ngay trong khi ngủ nghỉ

Phước đức vẫn liên tục

Tăng lớn như hư không

20. Để người tin Tiểu thừa

Không ngừng bước tiến lên

Trong Kinh Vấn Diệu Lý

Đấng Như Lai đã dạy

Công đức tâm bồ đề

Thật rộng lớn vô biên.

21-22. Chỉ nghĩ cách chữa lành

Đầu mọi người khỏi nhức

Là sự phát tâm quý

Đem cho ta phước đức.

Phước đức càng lớn hơn

Khi cứu giúp chúng sinh

Thoát ưu phiền thống khổ

Đạt được cõi an lành.

23. Có cha nào, mẹ nào

Đã phát tâm như vậy?

Tiên, chư Thiên, Phạm Thiên

Đã có chưa tâm ấy?

24. Xưa nay dù trong mơ

Chưa ai nguyện như thế

Dù vì lợi cho mình

Nói chi đến phát nguyện

Cứu độ cho người khác.

25. Làm sao có thể tìm

Được một vị Bồ Tát

[Một viên ngọc hy hữu]

Giữa chúng sinh ích kỷ

Chẳng biết làm điều lành

Vì lợi ích chúng sinh!

26. Tâm bồ đề trân quý

Là mầm mống an vui

Là linh dược diệt khổ

Tạo phước đức vô lường.

27. Ý nghĩ làm lợi người

Đã hơn phước cúng Phật

Huống chi luôn nỗ lực

Làm lợi lạc chúng sinh.

28. Có biết bao chúng sinh

Tuy cầu mong an vui

Song hủy diệt nguồn cội

Sản sinh ra hạnh phúc

Như tận diệt kẻ thù.

29. Chúng sinh thiếu niềm vui

Lại chịu nhiều đau khổ

Tâm nguyện Bồ đề này

Đem vui và diệt khổ.

30. Tâm Bồ đề có thể

Trừ diệt sự ngu si

Có bạn lành nào sánh

Còn phước nào lớn hơn?

31. Ta khen kẻ đáp ơn

Khi thọ ân bố thí

Bồ tát luôn ban ơn

Dầu chưa được cậy nhờ

Với tâm hạnh như vậy

Đáng ca ngợi xiết bao!

32. Kẻ bố thí thức ăn

Giúp chúng sinh đỡ đói

Dù họ no nửa ngày

Đã là người đáng trọng

33. Bồ tát thường ban cho

Niềm vui của chánh giác

Làm thỏa mãn tất cả

Nguyện vọng mọi hữu tình .

34. Đức Phật đã dạy rằng

Bồ tát cứu muôn loài

Nên đáng được tôn quý

Ai phỉ báng Bồ tát

Sẽ sa đại địa ngục

35. Ngược lại, ai tín thành

Cung kính chư Bồ tát

Sẽ hưởng phước đức lớn

Bồ Tát dù gian nan

Việc ác vẫn không làm

Càng hăng làm việc thiện.

36. Tôi kính xin đãnh lễ

Người phát tâm bồ đề

Đem vui cho chúng sinh

Cho cả kẻ hại mình.

Tôi cúi đầu kính lạy

Và xin được quy y

Nơi chư vị Bồ tát

Cội nguồn chân hạnh phúc.

CHƯƠNG II: SÁM HỐI TỘI NGHIỆP

Nghi lễ Bồ Tát

Ca ngợi

1. Để con nắm giữ được

Tâm nguyện quí giá này

Con cúng dường chư Phật

Và Pháp Bảo thiêng liêng

Con cúng dường Bồ tát

Đầy phẩm tính tốt lành.

Cúng dường

2. Cúng dường hoa quả tươi

Thức ăn ngon quý nhất

Nước uống thật tinh khiết

Vật quý báu trên đời

3. Cúng dường núi châu báu

Rừng thanh tịnh ngát hương

Hoa cõi trời diễm tuyệt

Trái quý buông trĩu cành

4. Cúng dường những hương thơm

Ngào ngạt cõi trời đất

Cúng dường trang sức quý

Cúng dường cây như ý

Thành tựu mọi ước mơ

Cúng dường mọi ngũ cốc

Tự sinh không người trồng.

5. Cúng dường ao sen đẹp

Thiên nga hót dịu êm

Và mọi vật vô chủ

Đầy dẫy khắp bầu trời.

6. Con giữ chúng trong tâm

Dâng lên đấng Thế Tôn

Và chư vị Bồ tát

Thỉnh cầu đức Thế Tôn

Từ bi nghĩ đến con

Mà nhận vật cúng dường.

7. Con vô phước bần cùng

Không một chút tài sản

Kính xin đức Phật thương

Nhận lễ vật tâm con.

8.  Con nguyện đem thân tâm

Để làm kẻ nô bộc

Phụng sự Phật, Bồ tát

Mong quí ngài xót thương

Thâu nhận lễ vật này.

9.  Được các ngài thâu nhận

Thân tâm con siêu thoát

Con nguyện sống lợi tha

Diệt trừ các ác nghiệp.

10-11. Đây nhà tắm tráng lệ

Nền thủy tinh long lanh

Cột trụ khảm trân châu

Lọng dù bằng ngà ngọc

Trần thiết lộc bình quý

Đầy nước thơm thích ý

Ngân vang muôn diệu âm

Thỉnh Phật, Bồ tát tắm

12. Đây khăn tắm sạch thơm

Lau khô thân các ngài

Đây y phục cõi trời

Với màu sắc mỹ lệ

Lan tỏa hương dịu thơm.

13. Đây y phục mềm mại

Và trăm trang sức quý

Dâng lên Đức Phổ Hiền,

Văn Thù, Quán Thế Âm.

14. Hương liệu thơm vũ trụ

Xin thoa ngọc thể Ngài

Tỏa hào quang thanh tịnh

Óng ánh sắc vàng ròng.

15. Xin cúng dường chư Phật

Các tràng hoa đẹp đẽ

Kết từ hoa tươi thơm

Như hoa sen, hoa lài

Hay hoa mạn đà la.

16. Con xin dâng chư Phật

Vầng mây hương ngây ngất

Dâng thực phẩm cõi trời

Thức ăn uống đẹp ngon.

17. Con dâng đèn hoa ngọc

Chân chạm đá sen vàng

Nền nhà dịu mát hương

Rải đầy hoa đẹp ý.

18. Xin cúng dường chư Phật

Những lâu đài tráng lệ

Rèm buông ngọc lung linh

Du dương ngân tiếng hát.

19. Xin dâng hiến chư Phật

Lọng che bằng châu ngọc

Cán đúc toàn vàng ròng

Viền thêu hoa mỹ lệ.

20. Cúng phẩm nhiều như mây

Nhạc du dương hoà tấu

Khổ đau được dịu xoa

Mong sao chúng mãi còn.

21. Mưa hoa, mưa ngọc ngà

Mong luôn luôn buông rơi

Trên thân Phật, tháp Phật

Trên giáo pháp diệu kỳ.

22. Như Ngài Diệu Cát Tường

Xưa kia cúng dường Phật

Nay con xin cúng dường

Phật, Bồ tát như vậy.

23. Dùng âm vang hải triều

Tán dương công đức Phật

Nguyện tiếng tán dương này

Luôn vang đến các Ngài.

24. Nguyện hoá thân như bụi

Lễ lạy Phật ba đời

Lễ lạy Pháp và Tăng

Cùng khắp cả pháp giới.

25. Con lễ lạy tháp Phật

Các nơi Bồ tát ở (3)

Lễ bậc trì giới nhất

Kính lễ hàng thánh tăng.

Quy y

26. Từ nay cho đến khi

Đạt Vô thượng Bồ đề

Con nguyện quy y Phật,

Pháp và chư Bồ Tát.

Sám hối

27. Trước chư Phật, Bồ Tát

Ở cùng khắp mười phương

Thánh chúng bi trí huệ

Con xin chấp hai tay

Thành khẩn nguyện như vầy:

28-29. Từ vô thỉ đến nay

Trôi lăn trong sinh tử

Với tội ác không lường

Do tự mình gây ra

Hay xúi giục người làm

Vì vô minh che lấp

Nay con biết lỗi lầm

Thành tâm xin sám hối.

30-31. Lỗi lầm con đã phạm

Qua nghiệp thân, khẩu, ý

Đã gây bao tổn hại

Cho Tam bảo (4), mẹ cha

Cũng như cho Thầy Tổ

Và cho bao kẻ khác

Nay trước đức Thế Tôn

Con thành tâm sám hối

Mọi tội lỗi gây ra.

32. Nếu sám hối chưa trọn

Con lỡ chết thì sao?

Vậy xin Ngài mau cứu

Trước khi thần chết đến.

33. Thần chết thật lừa lọc

Nó không biết đợi chờ

Tội rửa sạch hay chưa

Dù đang bệnh hay khỏe

Con không thể nào tin

Vào mạng sống mong manh

Lập loè như lửa đóm.

34. Con đã không ý thức

Chết là bỏ tất cả

Nên con đã quanh quẩn

Với bè bạn, kẻ thù

Nên đã tự gây ra

Biết bao điều xấu ác.

35. Đời người như mộng ảo

Điều gì đã trải nghiệm

Cũng chỉ là ký ức

Tất cả đều trôi qua

Không bao giờ trở lại.

36. Kẻ thù thành hư vô

Người thân như mây khói

Thân ta rồi phải chết

Tất cả trở về không.

37. Trong đời ngắn ngủi này

Kẻ thân, thù đã chết

Duy nghiệp ác đã gây

Còn lại đe dọa ta.

38. Tôi đã không ý thức

Rồi cũng chết như họ

Nên cứ tham sân si

Tạo ra bao lầm lỗi.

39. Mạng sống giảm từng ngày

Chẳng bao giờ ngừng nghỉ

Không thể nào tăng lên

Làm sao ta thoát chết?

40. Đến lúc sắp lâm chung

Dù thân thuộc vây quanh

Thống khổ lúc hấp hối

Tôi gánh chịu riêng mình.

41. Khi Diêm Vương đến bắt

Thân bằng có ích gì?

Chỉ phước đức mới cứu

Tôi lại chưa tu tập!

42. Do buông lung không biết

Hậu quả xấu mai sau

Bám víu đời mong manh

Ta tạo bao nghiệp xấu.

43. Như kẻ ra pháp trường

Kinh hãi, miệng khô đắng

Mắt trợn trắng, thất thần

Hình sắc cũng đổi khác.

44. Huống chi khi thấy bóng

Ma vương đến bắt ta

Kinh hoàng sao kể xiết

Khổ đau dâng tột cùng.

45. Ai cứu tôi ra khỏi

Cơn sợ hãi lớn này

Tôi tròn xoay đôi mắt

Nhìn bốn phương van cầu.

46. Bốn phương không thấy ai

Sợ hãi lại càng tăng

Không nơi nào che chở

Tôi phải làm sao đây?

47. Con xin quy y Phật

Ngài là đấng Từ Bi

Bảo vệ, đem lợi ích

Cho tất cả muôn loài

Có năng lực giải cứu

Tiêu trừ bao hãi sợ.

48. Con xin quy y Pháp

Mà chư Phật chứng ngộ

Có thể đưa chúng sinh

Sang đến bờ giải thoát

Và con xin quy y

Nơi chư vị Bồ Tát.

49. Trong cơn sợ bấn loạn

Con xin dâng thân mạng

Lên Bồ tát Phổ Hiền

Và Bồ tát Văn Thù.

50. Với tiếng kêu khẩn thiết

Con cầu Đức Quan Âm

Với tấm lòng đại bi

Cứu con, kẻ mê lầm.

51. Con cầu cứu các Ngài

Hư Không Tạng Bồ Tát

Địa Tạng Vương Bồ Tát

Chư Bồ Tát đại bi.

52. Con cũng xin nương tựa

Kim Cương Trí Bồ Tát

Ngài mà các sứ giả

Của Diêm vương khiếp vía .

53. Xưa trái lời Phật dạy

Nay gặp nạn hãi hùng

Con xin quy y Phật

Mau cứu độ cho con.

54-56. Với bệnh nhẹ tầm thường

Đã tuân lời thầy thuốc

Huống chi trăm thứ bệnh

Sinh từ tham sân si!

Một trong trăm bệnh này

Đã đủ làm tiêu hủy

Mọi loài Nam Diêm phù

Nay chạy khắp mọi nơi

Tìm không ra thuốc chữa.

Phật là đại y vương

Dạy giáo lý thoát bệnh

Những ai không làm theo

Thực ngu si đáng trách.

57. Bên hố sâu vài trượng

Tôi đi phải đề phòng

Cạnh địa ngục sâu thẳm

Sao đời đời nhởn nhơ?

58. Nghĩ rằng tôi chưa chết

Nhởn nhơ sống phóng dật

Quả thật là dại khờ B

ởi vì sớm hay muộn

Cái chết phải đến thôi.

59. Tôi không thể có được

Cái cảm giác dễ chịu

Rằng trong ngày hôm nay

Thần chết sẽ không đến.

Chắc chắn nó xuất hiện

Làm sao yên hưởng nhàn?

59. Ai cho sự không sợ

Ai chỉ tôi lối thoát

Làm sao thoát hãi kinh

Của sự chết phải đến

Sao có thể nhởn nhơ?

60. Khoái lạc đã trải qua

Chỉ còn là hoài niệm

Bám víu mà làm chi

Để trái lời Phật dạy?

61. Chết là lìa bỏ hết

Người thân và bạn bè

Đi vào cõi vô định

Bạn hay thù ích chi?

62. Tôi nên hằng ngày đêm

Tỉnh thức với tư duy

Rằng gieo ác, gặt ác

Làm sao ta tránh khỏi

Sự gieo xấu ác đây?

63-64. Vì ngu đần, vô minh

Phạm giới do Phật chế

Gây biết bao tội lỗi

Lòng run sợ ác báo.

Nay đối diện chư Phật

Con chấp tay đãnh lễ

Chư Phật và Bồ tát

Xin thành tâm sám hối.

65. Mong các Ngài tha thứ

Bao tội lỗi từ xưa

Và con xin thệ nguyện

Vĩnh viễn không tái phạm

Những hành vi độc ác.

CHƯƠNG III: PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

Vui theo hạnh lành

1. Tôi xin vui sướng theo

Công đức và hạnh lành

Mà chúng sinh thực hiện.

Tôi cầu họ an vui.

2. Tôi vui mừng ca ngợi

Chúng sinh thoát khổ ải

Và thoát vòng luân hồi

Thành Bồ tát, thành Phật.

3.  Tôi xin vui sướng theo

Tâm nguyện như biển cả

Của chư Phật, Bồ tát

Giúp mọi loài đang sống

Được hạnh phúc an vui.

Thỉnh cầu chánh Pháp

4. Tôi chấp tay thỉnh cầu

Chư Phật khắp mười phương

Đốt lên đuốc chánh pháp

Soi đường kẻ lầm mê

Đang rơi vào thống khổ.

Thỉnh cầu bậc Chiến Thắng ở lại thế gian

5. Tôi chắp tay thỉnh cầu

Xin các bậc Chiến Thắng

Đang muốn nhập Niết Bàn

Hãy ở lại thế gian

Suốt hằng hà sa kiếp

Để cứu độ chúng sinh

Thoát khỏi vòng tăm tối.

Hồi hướng công đức

6.  Với công đức làm lành

Tôi tích tụ từ lâu

Nay xin nguyện hồi hướng

Cứu khổ mọi sinh linh.

7.  Với chúng sinh đau bệnh

Nguyện hoá làm thuốc hay

Vừa làm thầy thuốc giỏi

Vừa làm kẻ điều dưỡng.

8.  Thời tai ương đói khát

Nguyện làm thức uống ăn

Nguyện như mưa cam lồ

Dập tắt lửa đói khát.

9.  Đối với kẻ bần hàn

Nguyện thành kho vô tận

Nguyện thành nhu yếu phẩm

Đáp ứng mọi nhu cầu.

Tự hiến thân mình

10. Vì an vui chúng sinh

Nguyện dâng hiến tất cả

Tài sản và thân mạng

Làm thiện suốt ba đời.

11. Buông hết tất thoát khổ

Tâm tất được thanh tịnh

Trước sau phải bỏ hết

Sao bằng bố thí ngay.

12-13. Tôi nguyện đem thân này

Bố thí cho chúng sinh

Họ tha hồ mắng chửi

Đánh đập hay giết hại.

Hoặc đem ra mua vui

Tâm tôi vẫn vắng lặng

Vì quyết xả thân này

Nên không hề nuối tiếc.

14. Trong khi hành hạ tôi

Dù lòng họ sướng vui

Tôi cũng xin khấn nguyện

Họ không bị ác báo .

15-16. Việc gì lợi chúng sinh

Tôi khiến thân này làm.

Nguyện ai gặp gỡ tôi

Đều có nhiều lợi lộc.

Nguyện ai giận, ghét tôi

Hay vu khống, não hại

Đều nhân đấy phát tâm

Hướng về đường Giác Ngộ.

17-18. Tôi xin nguyện bảo hộ

Cho những người cô đơn

Khách bộ hành cần giúp

Tôi làm kẻ chỉ đường

Nguyện làm cầu, làm thuyền

Cho kẻ muốn sang sông

Tôi nguyện làm hòn đảo

Cho người mong cập bến

Cho ai cần ánh sáng

Tôi nguyện hóa đuốc đèn

Tôi nguyện thành nhà cửa

Cho người cần nghỉ ngơi

Tôi nguyện làm tôi tớ

Cho kẻ cần người sai.

19.  Nguyện hoá làm bò quý

Thành bình ngọc như ý

Thành thuốc tiên, bùa linh

Nguyện thành cây như ý

Đáp nguyện ước chúng sinh.

20. Nguyện hóa thành nhu yếu

Căn bản cho sự sống

Của vô số hữu tình

Như đất, nước, lửa, khí.

21. Nguyện làm nhân duy trì

Sinh mạng của chúng sinh

Đến lúc không còn ai

Chưa chứng quả Niết Bàn.

Phát tâm bồ đề

22-23. Như chư Phật quá khứ

Khi phát tâm bồ đề

Đều lần lượt tu học

Giới hạnh của Bồ tát.

Phần thưởng của sự phát tâm

24. Nay vì lợi chúng sinh

Tôi phát tâm bồ đề

Siêng tu học giới hạnh

Mà Bồ tát hành trì.

25. Sau khi các bậc trí

Đã phát tâm bồ đề

Rồi khiến nó tăng trưởng

Nên ca ngợi như sau:

26. Thật phúc thay cho tôi

Nay được mang thân người

Sinh vào gia đình Phật

Được làm con của Phật .

27. Vậy từ nay trở đi

Phải cư xử, hành động

Đúng truyền thống nhà Phật

Quyết không làm ô danh

Giòng giống thanh tịnh này.

28. Như người mù may mắn

Nhặt được viên trân châu

Tôi phát tâm bồ đề

Cũng may mắn như vậy.

29-31. Tâm Bồ đề cam lộ

Mang lại sự bất tử

Là kho tàng vô tận

Trừ khử cảnh nghèo cùng.

Là linh dược tuyệt vời

Chữa mọi bệnh chúng sinh

Là bóng mát nghỉ ngơi

Cho lữ khách mệt mỏi.

Là cầu đưa chúng sinh

Vượt khỏi đường nguy hiểm

Là vầng trăng dịu soi

Xoa tan bao nóng bức.

Là mặt trời chói lọi

Xua đuổi bóng vô minh

Tâm bồ đề này đây

Ví như chất đề hồ

Rút từ sữa Diệu Pháp.

Với người khách phiêu bạt

Là lữ quán nghỉ ngơi

Với người tìm an vui

Là cội nguồn hạnh phúc.

32. Nguyện chư Phật chứng giám

Tôi mời khách thập phương

Đến đây để tận hưởng

Niềm vui được thành Phật

Mong chư Thiên, mọi người

Tất cả đều hoan hỷ .

CHƯƠNG IV: THỰC HÀNH TÂM BỒ ĐỀ

Trách nhiệm của Bồ tát

1.  Đã phát tâm bồ đề

Con Phật phải tinh tấn

Tu tập không biếng nhác

Không lìa hạnh Bồ tát.

2. Với công việc ngẫu hứng

Ta có thể nghĩ lại

Rằng nên làm hay không

Mặc dù ta đã hứa

3. Nhưng không thể buông bỏ

Điều Phật và Bồ tát

Đã quán chiếu chiêm nghiệm

Mà tôi đã thọ lãnh.

4. Tôi đã thề làm lợi

Cho tất cả chúng sinh

Mà không làm như hứa

Như vậy tôi lừa dối

Phận tôi sẽ ra sao?

5. Kinh đã dạy rõ rằng

Ai định cho kẻ khác

Một vật dù nhỏ nhoi

Song rồi lại không cho

Sẽ đọa làm quỷ đói.

6. Tôi đã mời chúng sinh

Dự tiệc đại an lạc

Rồi tôi lại dối gạt

Đời tôi sẽ bi đát!

7. Người bỏ tâm bồ đề

Mà được quả giải thoát

Là điều khó nghĩ bàn

Chỉ chư Phật biết rõ.

8. Trong giới hạnh Bồ tát

Ai bỏ tâm Bồ đề

Làm chúng sinh bất lợi

Sẽ gặt quả báo ác.

9. Ai trong một sát-na

Cản trở người làm thiện

Khiến hữu tình bị hại

Sẽ gặp quả báo ác

Thật vô cùng khủng khiếp.

10. Phá an lạc một người

Ta phải bị khốn khổ

Huống chi phá an lạc

Của vô số hữu tình

Ác báo không cùng tận.

11. Người phát tâm bồ đề

Nhưng hành động ngược lại

Sẽ trôi trong luân hồi

Khó trở thành Bồ tát.

12. Phải cung kính thực hành

Những gì đã thệ nguyện

Nếu tôi không tinh tấn

Sẽ đọa chốn thấp hèn.

Giá trị của cuộc sống

13. Vô số Phật ra đời

Mang lợi đến chúng sinh

Nhưng tôi vì tội xưa

Nên không được ân phước.

14. Nếu tái phạm nghiệp cũ

Chắc chắn không thoát khỏi

Số phận thật hẩm hiu

Bệnh đau và tật nguyền

Lăn lóc trong nẻo ác.

15. Bao giờ gặp cơ hội

Gặp được Phật xuất thế

Đem lòng tin Phật pháp

Được thuận duyên tu hành?

16. Mặc dù được khỏe mạnh

Đủ ăn, không tổn thương

Nhưng thân này tạm bợ

Nó chỉ là ảo ảnh.

17. Với cuộc sống hiện nay

Khó tái sinh thành người

Mà không được thân người

Làm sao làm việc thiện?

18. Có cơ hội làm thiện

Mà bỏ qua không làm

Liệu tôi làm được gì

Khi thống khổ bức bách?

19. Nếu không làm việc thiện

Chỉ toàn làm việc ác

Dù trải qua muôn kiếp

Vẫn không biết cõi lành.

20. Đức Thế tôn dạy rằng

Thân người khó được thay

Như rùa mù dưới biển

Cổ ngoi lên trúng ngay

Vào lỗ ván phiêu bồng.

21. Phạm tội nặng chốc lát

Đã phải bị đọa đày

Vào địa ngục vô gián

Vậy với tội muôn kiếp

Làm sao sinh cõi lành?

22. Chờ trả xong ác báo

Cũng khó thoát địa ngục

Bởi trong lúc trả nghiệp

Lại gây tội mới thêm.

23. Khi được thân con người

Là được cơ hội tốt

Cho mọi việc tu hành

Nếu bỏ cơ hội ấy

Thật không gì điên hơn.

24. Nếu đã biết như vậy

Mà vẫn ngu si, lười

Khi thần chết gõ cửa

Sẽ đau khổ dường bao.

25. Lửa địa ngục hừng hực

Đốt thân tôi nhiều kiếp

Nhưng ngọn lửa ăn năn

Càng hành hạ tâm can.

26. Thật khó hiểu vì sao

Tôi có được thân người

Khi nhận biết điều này

Thì rơi vào địa ngục!

Diệt trừ ái dục

27. Phải chăng các bùa chú

Khiến tôi bị si mê

Ai làm tôi mù lòa?

Ma nào ẩn thân tôi?

28. Những kẻ thù tham sân

Không tay chân mặt mũi

Không dũng cảm thông minh

Sao chúng sai sử tôi?

29. Chúng ngự trị tâm tôi

Thường làm tôi tổn hại

Mà tôi không biết giận

Đó là nhẫn nhục sai

Quả thật là đáng trách.

30-31. Trời người dù hợp lại

Nhất tề tấn công tôi

Vẫn không thể đẩy tôi

Vào địa ngục vô gián.

Nhưng phiền não ái dục

Lại ném tôi vào đó.

Nơi mà núi Tu Di

Cũng cháy không còn tro.

32. Bè lũ của ái dục

Sống dai dẳng vô cùng

Vô thỉ đến vô chung.

Kẻ thù trong đời tôi

Không sống lâu đến thế!

33. Theo kẻ địch ngoài đời

Chúng còn chia lợi lộc

Ngược lại địch tham dục

Chì luôn tạo khổ đau

Cho người phục dịch nó.

34. Kẻ thù dai dẳng ấy

Là cội nguồn bất hạnh

Nó ở ngay tâm tôi

Tôi an nhiên sao được?

35. Nó là kẻ cai tù

Kẻ hành quyết tội nhân

Nó ngự trị tâm tôi

Làm sao tôi hạnh phúc?

36-38. Ái dục chưa tận diệt

Tôi phải tinh tấn hơn!

Kẻ kiêu ngạo bị mắng

Liền nổi giận, trả thù

Khi hạ đối thủ xong

Mới an lòng yên ngủ.

Những chiến sĩ ra trận

Tàn nhẫn diệt quân thù

Dù những kẻ địch ấy

Tự nhiên cũng phải chết.

Họ phóng giáo, bắn tên

Không đào tẩu tháo lui

Khi chiến thắng chưa đạt.

39. Vậy thì chính tôi đây

Quyết tâm diệt si mê

Trước kẻ thù gieo khổ

Tôi quyết chí không lùi

Vì đau đớn, thất vọng.

40. Con người vì mưu sinh

Phải chài lưới, làm ruộng

Phải cố chịu đói lạnh

Nay tôi vì chúng sinh

Sao lại tránh khổ cực

Không gánh vác nhọc nhằn?

41-42. Dù tôi chưa giải thoát

Song đã nguyện cứu độ

Chúng sinh khắp mười phương

Vượt khỏi biển ái dục.

Tôi chưa tự lượng sức

Mà lòng đã nguyện thề

Vậy tôi điên hay không?

Dẫu vậy tôi vẫn quyết

Không ngừng diệt ái dục

Nơi chính bản thân mình.

43. Như chiến sĩ hờn căm

Quyết chiến thắng tất cả

Tôi giữ một say mê

Diệt ái dục đến cùng.

44. Thà tôi bị thiêu đốt

Bị moi ruột, chặt đầu

Nhưng quyết không khuất phục

Giặc ái dục bạo tàn.

45-46. Kẻ địch khi bị thua

Rút lui, tìm nơi ẩn

Rồi khi phục hồi sức

Quay lại để phục thù.

Nhưng ái dục thì không

Khi nó bị đánh bại

Nó không chạy chỗ khác

Để tìm nơi ẩn trú

Mà chui vào trong tâm

Vốn yếu hèn của tôi

Và lẩn trốn nơi đó.

Ái dục thật hèn hạ

Duy chỉ có Trí tuệ

Mới tiêu diệt nó thôi.

47. Nó không ở ngoại cảnh

Không nằm trong các căn

Không ở giữa các căn

Hoặc bất cứ nơi khác.

Vậy nó từ đâu đến?

Khiến cho đời đảo điên?

Nó chỉ là ảo ảnh!

Hởi tâm của tôi ơi!

Không nên sợ ái dục

Hãy giải phóng nó đi

Hãy tu chứng Trí tuệ!

Tại sao tôi vô lý

Chịu khổ trong địa ngục?

48. Thường tư duy như vậy

Hãy cố sức tu hành

Trọn đủ giới Bồ tát

Không tuân lời lương y

Làm sao dứt được bệnh?

CHƯƠNG V: CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC

Gìn giữ tâm ý

1. Ai giữ giới Bồ tát

Phải giữ gìn tâm ý

Không kềm chế tâm ý

Thì không thể duy trì

Bất cứ giới luật nào.

2. Voi điên tuy gây hại

Nhưng không thể nào bằng

Con “voi tâm“ phóng dật

Mang đến bao tai họa

Đọa ta vào địa ngục.

3.  Luôn dùng thừng chánh niệm

Cột chặt “voi tâm“ điên

Thì tai họa tan biến

Phước lành hiện đến liền.

4-5. Điều phục được tâm ý

Là điều phục tất cả

Sư tử, voi, gấu, rắn

Và tất cả kẻ thù

Cùng lính canh địa ngục

Quỷ Dạ xoa, La Sát

Đều bị trói tất cả.

6. Phật đã tuyên bố rằng

Hiểm họa và lo sợ

Với khổ đau vô tận

Đều do tâm phát sinh.

7-8. Hình cụ trong địa ngục

Do ai tạo tác nên?

Nền sắt nóng hỏa ngục

Nữ nhân kia từ đâu?

Phật dạy rằng tất cả

Do ác tâm biến ra

Bởi thế trong ba cõi

Tâm mình đáng sợ nhất.

9-10. Nếu bố thí cao cả

Đạt được nhờ xóa nghèo

Chẳng lẽ Phật xưa kia

Không đạt hạnh bố thí

Vì thế gian vẫn nghèo?

Bởi vậy tâm bố thí

Cả tài sản, công đức

Là bố thí rốt ráo

Phát xuất từ nội tâm.

11. Lùa cá tôm đến đâu

Để khỏi bị săn giết?

Vĩnh viễn dứt ác tâm

Là thành tựu giới độ.

12. Sân si đầy thế gian

Làm sao hàng phục hết?

Hàng phục được tâm sân

Là hàng phục tất cả.

13-14. Làm sao đủ da thuộc

Để phủ kín địa cầu?

Nhưng chiếc dép da này

Sẽ bao trùm mặt đất.

Cũng vậy với ngoại cảnh

Tuy chưa làm chủ được

Nhưng làm chủ tâm mình

Có gì quí giá hơn?

15. Làm thiện bằng thân, miệng

Nhưng tâm lại tán loạn

Thì khó đạt phước đức

Không lên cõi Phạm Thiên (5)

Trong khi chỉ một mình

Tâm thanh tịnh cũng đủ.

16. Phật dạy dù tụng niệm

Tu khổ hạnh lâu năm

Mà tâm cứ tán loạn

Thì cũng vô ích thôi.

17. Những người tìm hạnh phúc

Chạy trốn mọi khổ đau

Sẽ tiếp tục lạc lối

Nếu không hiểu cái tâm

Kỳ diệu chứa mọi pháp.

Chánh niệm và tỉnh giác

18. Bởi thế nên cẩn thận

Gìn giữ trọn tâm ý

Giữ giới tu luyện tâm

Đâu cần tu pháp khác.

19. Giữa đám đông hỗn loạn

Ta gìn giữ vết thương

Không để ai đụng đến;

Giữa cuộc đời hung ác

Ta phải giữ tâm mình

Như ta giữ vết thương.

20. Ta gìn giữ vết thương

Vì sợ người đụng đau

Sao ta không giữ gìn

Vết thương của tâm ta

Cho khỏi bị đè bẹp

Dưới chân núi địa ngục?

21. Nếu hành trì như vậy

Ta cứng rắn, tinh tấn

Dù ở giữa người ác

Hay ở giữa người lành.

22. Thà để mất lợi dưỡng

Mất tài sản, thanh danh

Mất thân xác, mạng sống

Quyết không để mất tâm.

23. Tôi chấp tay nguyện cầu

Cho những ai ước mong

Gìn giữ được tâm ý

Đều luôn luôn duy trì

Chánh niệm và tỉnh giác.

24. Người đau không đủ sức

Làm bất cứ việc gì

Cũng vậy, bất cứ ai

Thiếu chánh niệm, tỉnh giác

Sẽ không còn đủ sức

Để làm những việc lành.

25. Người tâm không chánh niệm

Không còn ghi trong trí

Lời giáo huấn tu hành

Như nước rỉ bình nứt.

26. Biết bao người thông thái

Sùng tín và tinh tấn

Nhưng vì không chánh niệm

Nên phạm tội ô uế.

27. Tên giặc không chánh niệm

Luôn rình cướp tỉnh giác

Vét sạch phước tích lũy

Đưa người vào nẻo ác.

28. Ái dục như lũ giặc

Cướp gia tài phước đức

Hủy hoại tâm chánh niệm

Phá đường đến cõi lành .

29. Tuyệt không để chánh niệm

Rời khỏi cửa tỉnh giác.

Nếu nó đi lang thang

Phải gọi nó quay lại.

Nó phải nghĩ cảnh khổ

Trong ba cõi địa ngục

Để an trú chánh niệm.

30. Hạnh phúc thay những ai

Sống cạnh thầy đáng kính

Tuân theo lời giáo huấn

Để trau dồi chánh niệm.

31-32. “Chư Phật, chư Bồ tát

Nhìn thấu suốt mọi điều

Ta đứng trước các ngài

Đâu dấu được điều chi”.

Nếu có suy nghĩ ấy

Sẽ sinh lòng hổ thẹn

Và trong tâm luôn luôn

Có mặt của đức Phật.

33. Chánh niệm như lính canh

Trước cửa ngõ của tâm

Nhờ đó mà tỉnh giác

Mãi mãi được có mặt.

34. Nếu ý xấu manh nha

Phải thấy ngay tai họa.

Vậy phải giữ chánh niệm

Như cây bám chặt đất .

35. Không bao giờ nên nhìn

Dáo dác và mông lung

Mắt thường nhìn thẳng xuống

Như trong lúc ngồi thiền.

36. Để cho mắt nghỉ ngơi

Thỉnh thoảng nhìn chân trời

Khi có người xuất hiện

Hãy nhìn thẳng chào hỏi.

37. Trên đường, nên đứng lại

Nhìn rõ khắp bốn phương

Lúc dừng nghỉ dưỡng sức

Hãy quan sát sau lưng .

38. Kiểm tra kỹ trước sau

Rồi nhận định hoàn cảnh

Tùy nhu cầu hành động

Mà tiến tới hay lui.

39-40. Trước khi ta hành động

Nên ý thức rõ ràng

”Đây tư thế của thân”

Và trong khi hành động

Cũng luôn luôn quán xét

Tư thế của thân mình.

Cũng vậy, thường quán xét

Tâm ý như voi điên

Buộc vào trụ chánh niệm

Không cho nó chạy loạn.

41. Người tu tập thiền định

Luôn luôn giữ chánh niệm

Thường quán sát tự hỏi

Tâm ý mình ở đâu?

42. Lúc nguy, khi lễ lạc

Hoặc trong khi bố thí

Khó giữ được chánh niệm

Nên buông giới hạnh nhỏ.

43-44. Quyết định làm việc này

Không nên nghĩ việc khác

Tâm trí phải chuyên chú

Làm xong từng việc đã.

Được vậy việc mới thành

Nếu không, thì hai việc

Chẳng việc nào hoàn tất

Chánh niệm chẳng gia tăng.

45. Hãy quyết tâm từ bỏ

Xem kịch, nói chuyện phiếm

Hãy tinh tấn đoạn trừ

Tâm tham đắm thứ ấy.

46. Hãy nhớ lời đức Phật

Từ bỏ việc vô nghĩa

Như bức cỏ, vẽ đường

Đập đất đá vỡ tan.

47. Trước khi muốn di chuyển

Hoặc trước khi nói năng

Phải kiểm soát tâm ý

Đưa nó vào chánh niệm.

48. Nếu ý khởi tham ái

Tâm manh nha nổi giận

Hãy tạm dừng nói, làm

Như cây đứng lặng yên.

49-50. Khi tâm ý lăng xăng

Ngạo mạn hoặc kiêu căng

Tự mãn hoặc thô bạo

Lém lĩnh hoặc lừa dối

Tự khen và chê người

Nói những lời khinh bạc

Nói những lời gây gổ

Hãy như cây đứng yên.

51. Muốn lợi lộc, danh tiếng

Muốn sai sử người khác

Muốn được kẻ hầu hạ

Hãy như cây đứng yên.

52. Khi muốn nói và làm

Khiến người mất lợi ích

Để mưu cầu lợi mình

Hãy như cây đứng yên.

53. Khi bồn chồn lười biếng

Nhát sợ, không biết thẹn

Nói vô nghĩa, thiên vị

Hãy như cây đứng yên.

54. Khi thấy tâm ô nhiễm

Lăng xăng việc vô nghĩa

Hãy dùng phép đối trị

Kiên trì an định tâm.

55-57. Không nên để phân tâm

Vì những việc tranh chấp

Hãy luôn đem an vui

Làm cho người hạnh phúc.

Với đức tin thâm sâu

Vững vàng và kiên quyết

Biết xấu, sợ nhân quả.

Đừng sinh tâm chán ghét

Kẻ ngược ngạo, ngu si

Nên mở lòng thương họ

Vì họ bị vô minh.

Vả lại tôi đã nguyện

Vì lợi mình lợi người

Tôi không nên phạm tội

Vậy phải luôn quán tưởng

Rằng tôi là vô ngã

Tôi là một ảo tưởng.

58. Nên luôn tư duy rằng

Nhiều kiếp mới thành người

Vậy phải giữ tâm sáng

Vững như núi Tu Di.

Thân

59. Hỡi này tâm ý ơi

Ngươi tự vệ ra sao

Khi kên kên háu đói

Mổ xé thi thể ngươi?

60. Sao ngươi xem thân này

Là bản ngã của ngươi?

Ngươi với nó khác nhau

Mất nó ăn nhằm gì!

61. Này tâm ý ngu si

Ngươi xem khúc gỗ sạch

Không phải là thân ngươi

Nên ngươi không bám víu

Sao lại bám bộ máy

Cấu tạo từ bẩn dơ?

62-63. Hãy dùng tâm quán tưởng

Tách da ra khỏi thịt

Dùng trí tuệ làm dao

Tách thịt rời khỏi xương.

Rồi chẻ tách xương ra

Phân tách tủy bên trong

Quan sát cho thật kỹ

Thực chất nó là gì?

64. Dẫu tìm tòi cẩn thận

Vẫn không thấy bản chất

Của bất cứ vật nào.

Tại sao còn tham luyến

Nâng niu tấm thân này?

65. Ngươi không thể nào ăn

Thân thể dơ bẩn này

Không uống máu, ăn lòng

Vậy giữ nó làm chi?

66. Tốt nhất xem thân này

Là thức ăn quạ, cáo

Chỉ nên giữ thân này

Giúp ta làm việc thiện.

67. Dù ngươi bám giữ thân

Thần chết cũng không tha

Cướp lấy thẩy cho quạ

Ngươi làm gì được đây?

68-69. Khi tớ bỏ ra đi

Chủ không cho cơm áo

Thân này sẽ bỏ ngươi

Cưng dưỡng nó làm gì?

Trả đủ lương cho nó

Chớ cho thêm quá mức.

Ôi tâm của ta ơi!

Đối với thân của ngươi

Hãy xử sự như thế.

70. Hãy xem thân như thuyền

Dùng để chở chúng sinh

Đưa họ từ bờ khổ

Sang bên bờ giải thoát.

71. Hãy tự chủ thân tâm

Luôn lộ vẻ vui tươi

Đừng cau mày giận dữ

Hãy làm người bạn tốt,

Chân thành của chúng sinh.

72. Khi di dời ghế giường

Đừng gây tiếng động lớn

Mở cửa cũng nhẹ nhàng

Luôn tránh tiếng ồn ào.

73. Sếu, mèo và kẻ trộm

Hành động rất lặng lẽ

Để đạt được mục tiêu

Bồ tát cũng nên thế .

74. Làm học trò tất cả

Cung kính nhận lời khuyên

Của bậc thầy hướng dẫn

Dù ta chẳng yêu cầu.

Nguyên tắc ứng xử

75. Ai khéo giảng chánh pháp

Ta nên ngõ lời khen

Ai làm phước làm lành

Ta vui mừng ca tụng.

76. Kín đáo khen người khác

Vì công đức của họ

Nghe người khác khen mình

Tự xét xứng đáng không?

77-78. Ai làm được việc gì

Mang lại nguồn hạnh phúc

Không thể mua bằng tiền

Thì ta hãy cùng vui

Với công đức kẻ ấy.

Làm vậy không gây hại

Đời sau được vui hơn

Nếu sinh lòng ganh tị

Ta sẽ gặt khổ đau

Đời sau càng khổ nữa.

79. Nói năng phải minh bạch

Dễ nghe, thấm tận tim

Phát xuất tại từ tâm

Nhu hòa và chính xác.

80. Hãy nhìn ngắm chúng sinh

Với lòng dạ từ bi

Và nghĩ rằng nhờ họ

Mà ta sẽ thành Phật.

81. Phước lớn được thành tựu

Nhờ tín tâm vững bền

Nhờ đối trị việc ác

Nhờ cúng ba ruộng phước (6)

82. Phát xuất tận đáy lòng

Ta thường làm việc thiện

Điều lành hãy tự làm

Không giao cho kẻ khác.

83. Bố thí và trì giới

Phải tăng tiến mỗi ngày

Đừng chê nhỏ, theo lớn

Nên thực hiện mọi hạnh.

84. Nhận thức được như vậy

Nên hiến mình làm thiện

Có thể phạm giới cấm

Vì lợi ích chúng sinh.

85. Chỉ ăn những gì cần

Chia sớt thức ăn uống

Cho những vị tu sĩ

Cho kẻ khổ, cô đơn

Cho người rơi xuống thấp

Bồ tát cho tất cả

Trừ ba bộ áo quần.

86. Thân phục vụ chánh pháp

Nên không để tổn thương

Nhờ vậy mau thực hiện

Ước nguyện cứu chúng sinh.

87. Không hy sinh thân mạng

Cho kẻ thiếu từ bi

Bồ tát chỉ xả thân

Vì mục đích tối thượng.

88. Không thuyết pháp cho người

Có thái độ bệnh hoạn

Đội mũ, không cung kính

Cầm gậy, cầm binh khí .

89. Không thuyết pháp cho người

Khác phái ở một mình

Không nói pháp thâm sâu

Cho kẻ thiếu thông minh

Nhưng cũng phải cung kính

Mọi pháp dù sâu cạn (7)

90. Không nên giảng Tiểu thừa

Cho người đủ điều kiện

Lãnh hội pháp Đại thừa

Không được thu hút người

Bằng cách giảng sai kinh

Và chú thuật Mật giáo (8)

91. Không được nhổ nước bọt

Và vứt tăm xỉa răng

Bừa bãi nơi công cộng

Không được phép phóng uế

Lên đất đai canh tác

Và nguồn nước sạch trong.

92. Khi ăn chớ đầy miệng

Há miệng, nhai ra tiếng

Ngồi không đong đưa chân

Không xoa tay vào nhau.

93. Không đi xe, ngủ đêm

Chung với người khác phái

Hầu tránh sự hiềm ghét

Khiến người mất niềm tin.

94. Không nên dùng ngón tay

Chỉ đường hoặc ra lệnh

Mà phải tỏ lịch sự

Đưa nguyên bàn tay phải .

95. Không đưa tay vẫy gọi

Trừ khi gọi gấp rút

Búng ngón tay thành tiếng

Bằng không sẽ mất uy.

96. Hãy ngủ trong chánh niệm

Nằm đúng theo tư thế

Như khi Phật nhập diệt

Lúc tỉnh giấc, dậy liền.

97. Phật dạy vô số hạnh

Không thể nào kể hết

Pháp thanh lọc tâm này

Nên gắng thực hành ngay.

98. Ngày như đêm ba lần

Tụng niệm Kinh Ba Phần (9)

Y theo tâm Bồ đề

Giải trừ dần ác nghiệp.

99. Bất cứ hoàn cảnh nào

Do ta hoặc người tạo

Phải tinh tấn thực hành

Những lời đức Phật dạy.

100. Bất cứ giáo pháp nào

Đưa đến sự giải thoát

Con Phật đều thực hành

Được vậy, sẽ gặt phước.

101. Bồ tát làm mọi hạnh

Vì lợi ích chúng sinh

Trực tiếp hay gián tiếp

Và hồi hướng tất cả

Vì sự nghiệp giác ngộ.

102. Dù phải mất tính mạng

Bồ tát không xa lìa

Các bậc thiện trí thức

Tinh thông nghĩa đại thừa.

Nguồn gốc giới luật

103. Để biết cách hầu Thầy

Nên học những phép tắc

Trong truyện Cát Tường Sinh (10)

Và thêm các kinh khác.

104. Nên đọc các tạng kinh

Có trình bày giới luật

Trước hết hãy tìm đọc

”Thánh xứ hư không tạng”.

105. Kinh “Học xứ tập yếu”

Đã diễn rộng lý do

Vì sao phải tu hành

Vậy cần đọc bộ luận

”Chúng học xứ tập yếu”.

106. Hoặc cũng nên tìm đọc

”Nhất thiết kinh tập yếu”

Và cũng cần đọc kỹ

Song luận của Long Thọ .

107. Kinh luận trên ghi rõ

Điều cấm, điều nên theo

Tu đúng lời kinh dạy

Giữ lòng tin trên đời.

108. Định nghĩa của chánh niệm

Tóm gọn lại như sau:

Luôn quán sát thật kỹ

Trạng thái Thân và Tâm.

109. Tụng niệm để thực hành

Đọc suông không có ích

Nếu chỉ đọc toa thuốc

Làm sao trị bệnh lành?

CHƯƠNG VI: NHẪN NHỤC

Sân hận

1. Một cơn giận phá hủy

Công đức ngàn kiếp tu

Tích lũy từ bố thí,

Từ cúng dường Thế tôn.

2. Sân hận vô cùng ác

Nhẫn nhục vô cùng lành

Bởi thế bằng mọi cách

Siêng năng tu nhẫn nhục.

3. Ngày nào trong tâm ta

Nọc hận thù tồn tại

Ta sẽ không ngủ yên

Mất an lành, hạnh phúc.

4-5. Một người chủ nổi giận

Có thể bị giết chết

Bởi kẻ nhờ ông giúp

Mà trở nên giàu sang

Và được người kinh trọng.

Với tấm lòng sân hận

Dù ban ơn  cho ai

Họ cũng không hạnh phúc

Bạn bè cũng lánh xa.

6. Sân hận là kẻ địch

Tạo nên nhiều khổ đau

Ai khắc phục sân hận

Vui đời này, kiếp sau .

7. Được thứ gì không thích

Hoặc lòng tham bị ngăn

Đều nuôi dưỡng sân hận

Và làm khốn khổ tôi.

8. Vì vậy tôi muốn diệt

Những chất nuôi dưỡng này.

Sân hận duy chỉ biết

Làm hại tôi mà thôi.

Nhẫn nhục

Nhẫn nhục đối với đau khổ

9. Dù gặp cảnh ngược đãi

Nên giữ tâm an vui.

Bực tức không sinh lợi

Lại cướp mất phước lành.

10. Nếu có cách cứu chữa

Những tình huống rắc rối

Thì khổ đau làm gì?

Nếu không có giải pháp

Khổ đau không lợi chi!

11. Ta không muốn cho mình

Cũng như cho bạn bè

Bị khổ đau, khinh dễ

Bị chửi mắng, vu oan

Duy chỉ có kẻ thù

Muốn chúng tôi như thế.

12. Hạnh phúc khó đạt thay

Đau khổ thường xảy đến

Nhưng giải thoát chỉ đạt

Khi thắng vượt khổ đau

Bởi vậy, tâm ta ơi

Hãy dũng cảm kiên định!

13. Người nào tu khổ hạnh

Thờ nữ thần Durga (11)

Tự thiêu, xẻ thịt mình

Không hy vọng giải thoát

Sao ta không can đảm

Chịu khổ vì giải thoát?

14. Nhờ tập luyện thường xuyên

Điều gì cũng thành tựu

Trước cố chịu khổ nhỏ

Sau chịu được khổ lớn.

15. Những loại khổ tầm thường

Do muỗi mòng, rít cắn

Hoặc đói khát, nhức ngứa

Chúng không vô dụng đâu!

16. Chẳng nên mất kiên nhẫn

Khi khổ vì nóng lạnh

Hay kiệt sức bệnh đau

Hoặc tra tấn, ngục tù

Nếu ta mất kiên nhẫn

Đau khổ càng tăng thêm.

17-18. Có người thấy máu chảy

Lòng dũng cảm càng tăng

Có người thấy máu chảy

Lại té xỉu bất tỉnh.

Điều ấy tùy thuộc tâm

Vững mạnh hay yếu đuối

Bồ tát phải tự chủ

Vượt qua mọi khổ đau.

19. Dù trải qua  đau khổ

Bậc trí vẫn an nhiên

Quyết đánh giặc phiền não

Dù dễ bị thương tích.

20. Kẻ anh hùng vinh quang

Vì hiên ngang thắng giặc

Còn chiến sĩ tầm thường

Chỉ đâm những thây ma.

21. Khổ cũng có điều hay:

Giúp ta trừ kiêu mạn

Mở lòng thương chúng sinh

Bỏ ác và kính Phật.

Nhẫn nhục trước bất công

22. Ta không giận gan, tim

Và bộ phận trong người

Dù chúng là nơi sinh

Bao đau đớn, bệnh tật.

Sao đối với hữu tình

Lại nổi lòng sân hận?

Họ cũng là nạn nhân

Của đau đớn bệnh tật

Tất cả vì nhân duyên.

23. Mặc dù không ai muốn

Bệnh đau vẫn cứ sinh;

Mặc dù không ai mong

Sân hận vẫn nổi dậy.

24. Đâu có ai nghĩ trước:

“Bây giờ ta nổi sân”

Và sân đâu toan tính:

”Bây giờ ta xuất hiện”

25. Tất cả mọi lỗi lầm

Và hành động độc ác

Đều do nhân duyên sinh

Không có gì tự phát.

26. Nhân duyên lúc tập hợp

Không hề có ý nghĩ:

“Ta sinh một thứ gì”

Một cái gì được sinh

Trước đó đâu có nghĩ:

“Ta phải được sinh ra”

27. Những gì được gán gọi

Là  chất liệu nguyên sơ

Hoặc gán là “Cái Ta”

Đều không tự sinh ra

Sau khi nghĩ: “Ta sinh”.

28. Bởi vì trước khi sinh

Không có gì hiện hữu

Vậy cũng không có gì

Khởi ý muốn được sinh

Bởi vì luôn bám víu

Vào  cái Ta vĩnh cửu

Nên không thể tách rời

Đối tượng của “cái Ta”

Là chất liệu nguyên sơ

Và mãi mãi như vậy.

29. Nếu cái ta vĩnh hằng

Thì nó phải bất động

Giống như là hư không.

Làm sao cái không đổi

Lại có thể hành động

Ngay trong khi nối kết

Với những nhân duyên khác.

30. Nếu tiếp xúc duyên khác

Cái ta vẫn như xưa

Vậy thì trong hai thứ

Cái Ta và duyên khác

Ai tác động ai đây?

Nếu bảo “Ta” tác động

Thì điều này không đúng.

Cái Ta không tác động

Vì nó không thể có

Một lúc hai tự tánh

[Bất động và biến đổi].

31. Như vậy mọi sự vật

Đều sinh từ nhiều duyên

Và bất cứ duyên nào

Cũng lệ thuộc duyên khác.

Ý thức được như vậy

Ta không bị phiền nhiễu

Vì tất cả đối tượng

Đều chỉ là ảo tưởng

Sinh từ trò ảo thuật!

32. (Hỏi) Nếu sự vật huyễn ảo

Thì “Ai” chế ngự giận?

Và nếu nói chẳng có “ai”

Thì cần chi trừ giận?

(Đáp) Thực ra cần trừ giận

Vì tiến trình nhân quả

Luôn luôn vẫn tiếp diễn

Nhờ chế ngự được giận

Mà cắt đứt khổ đau .

33. Bởi vậy khi nhận thấy

Bạn, thù muốn hại ta

Hãy nghĩ là duyên sinh

Và giữ tâm thanh tịnh.

34. Nếu mọi sự phát sinh

Do ý muốn con người

Thế giới sẽ an lạc

Vì chẳng ai chọn khổ.

35-36. Vì vô ý tự hại

Bởi vật nhọn, gai đâm

Vì giận, đói nữ sắc

Nên cấu xé lẫn nhau

Chịu đói khát khổ sở …

Có kẻ lại tự tử

Như thắt cổ, nhảy sông

Hoặc uống những chất độc

Hay gây ra tội ác.

37. Dưới bạo lực ái dục

Con người tự hủy mình

- Hủy cái thân quý báu -

Thế thì sao tránh khỏi

Làm hại những người khác?

38. Kẻ điên vì ái dục

Luôn tìm cách làm hại

Nếu không thương xót được

Thì cũng đừng giận họ .

39. Nếu bản chất kẻ ấy

Là chuyên hãm hại người

Giận họ cũng vô lý

Khác nào giận lửa đốt .

40. Nếu bản chất họ lành

Phạm lỗi vì vô tình

Giận họ cũng vô lý

Khác nào giận không khí

Bị nhiễm khói sặc sụa.

41. Khi bị đánh bằng gậy

Ta oán người cầm gậy

Song chính là cơn giận

Đã sai khiến họ đánh

Vậy nên ghét cơn giận.

42. Xưa tôi làm khổ người

Nay người hãm hại tôi

Tôi đành phải nhận lãnh

Quả báo tôi đã gieo.

43. Vũ khí của kẻ kia

Và thân này của tôi

Cả hai là nguyên nhân

Tác thành sự đau khổ

Kẻ kia có vũ khí

Còn tôi có thân này

Vậy phải giận ai đây?

44. Thân như vết thương nặng,

Chạm nhẹ cũng đau điếng

Mù quáng tôi ôm giữ

Thử hỏi khi nó đau

Tại sao tôi tức giận?

45. Tôi không muốn khổ đau

Nhưng vì sự ngu muội

Mà tạo ra nguyên nhân

Gây nên sự đau khổ.

Đó là lỗi của mình

Sao lại giận người khác?

46. Chính hành động của tôi

Đã tạo nên địa ngục

Và rừng kiếm, núi đao

Vậy nên giận ai đây?

47. Chính hành động của tôi

Đã khiêu khích người khác

Và khiến họ hại tôi.

Họ bị đọa địa ngục

Vậy tôi đã hại họ.

48. Nhờ những kẻ hại tôi

Mà tôi tu nhẫn nhục

Trừ được nhiều tội lỗi.

Vì tôi đã nhẫn nhục

Nên họ sa địa ngục

Chịu đau khổ lâu dài.

49. Chính tôi làm hại họ

Khi họ làm lợi tôi

Sao tôi còn lật lọng

Hỡi cái tâm hồ đồ.

50. Nhờ tâm được thanh lọc

Tôi không đoạ địa ngục

Tôi đã tự cứu mình

Kẻ kia được thứ chi?

51. Nếu ăn miếng trả miếng

Tôi chẳng cứu vớt họ

Họ phải chịu đọa đày

Còn tôi thì thất bại

Trên con đường tu tập.

Nhẫn nhục qua nhận thức thực tại

52. Tâm không có hình thể

Nên không bị tổn thương

Nếu bám chắc vào thân

Nên khi thân đau khổ,

Tâm sẽ bị khổ đau.

53. Lời khinh khi, thô ác

Tiếng mắng chưởi, vu oan

Không làm hại thân được

Sao tâm lại nổi sân?

54. Rằng: “Có kẻ không ưa”

Nhưng sự “Không ưa “ ấy

Từ nay đến đời sau

Có cấu xé ta đâu

Sao ta ghét guổng họ?

55. Nếu ta ghét guổng họ

Vì sợ mất lợi lộc

Lúc chết lợi cũng mất

Nghiệp ác vẫn còn hoài.

56. Tốt nhất thà chết sớm

Hơn sống làm nghề ác

Sống lâu đâu thoát được

Khổ đau của cái chết .

57-58. Hai người nằm chiêm bao

Kẻ thấy vui trăm năm

Người sướng trong khoảnh khắc

Nhưng khi bừng tỉnh giấc

Hạnh phúc đều biến tan .

Cuộc đời như giấc mộng

Dù tuổi thọ ngắn dài

Khi sinh mạng chấm dứt

Hạnh phúc đều tiêu tan.

59. Dù tiền rừng bạc biển

Dù lạc thú lâu dài

Lúc chết tay trống trơn

Mình trần như bị cướp.

60. Có kẻ quan niệm rằng

Nhờ của để mà sống

Để giải ác, tích thiện

Nhưng nổi sân vì lợi

Thì phước mất, tội sinh.

61. Nếu chỉ vì mưu sinh

Mà làm chuyện thất đức

Một đời sống như vậy

Cuối cùng lãnh ác đọa

Sống như thế ích chi?

62. Ta ghét kẻ nói xấu

Làm ta mất tín nhiệm

Sao ta không ghét kẻ

Nói xấu bao người khác?

63. Ngươi tỏ ra bình thản

Với kẻ chê người khác

Bởi ngươi không dính vào.

Sao ngươi không nhẫn nhịn

Với kẻ vu oan ngươi

Mà chính ngay kẻ ấy

Bị ái dục chi phối?

64. Đối với người phá tượng

Đập chùa, chê chánh pháp

Ta không nên nổi giận

Bởi vì bậc Giác ngộ

Không vì vậy khổ đau.

65. Với kẻ xúc phạm Thầy

Và người thân của ta

Ta nên dằn cơn giận

Mà nên quán chiếu rằng

Đó là nhân duyên sinh.

66. Khổ sinh từ nhân duyên

Cố ý hay vô tình

Chúng sinh không thể thoát .

Chỉ chúng sinh hữu tình

Mới ý thức được khổ

Vậy ta nên nhẫn chịu.

67. Người làm ác bởi si

Kẻ nổi giận vì mê

Vậy ai người có lỗi

Vậy kẻ nào vô tội?

68. Xưa ta đã tạo nghiệp

Nay ta nhận quả báo

Mọi sự sinh từ nghiệp

Sao ta trách giận người?

69. Khi đã hiểu như vậy,

Ta cố làm việc lành

Cầu mong mọi chúng sinh

Biết yêu thương lẫn nhau.

70-71. Một ngôi nhà bốc lửa

Có thể lan nhà bên

Ta phải rút tranh rạ

Và thứ dễ bắt lửa;

Cũng vậy phải loại ngay

Bao ý niệm tham đắm

Bắt mồi cho lửa sân

Thiêu rụi kho công đức.

72. Kẻ tử tù được thả

Sau khi bị chặt tay

Phải chăng là bất hạnh?

Kham chịu khổ thế gian

Để thoát khổ địa ngục

Phải chăng là bất hạnh?

73. Nay ta không chịu nổi

Một chút khổ nho nhỏ

Sao ta không diệt sân

Vì nó là nguyên nhân

Sinh ra khổ địa ngục?

74. Vì sân nên ngàn lần

Tôi đã bị đau khổ

Vì lửa địa ngục đốt.

Điều này chẳng lợi gì

Cho ta và kẻ khác!

75. Đau khổ của đời này

So ra tương đối nhẹ

Mà còn đem lợi lớn.

Vậy ta nên vui vẻ

Nhẫn chịu khổ nhỏ này

Vì nó giúp xua tan

Đau khổ của chúng sinh.

Ganh tỵ

76. Có những kẻ hân hoan

Và không ngớt ca ngợi

Công đức của người khác.

Tâm ý của ta ơi!

Sao không biết hân hoan

Nhập cuộc khen ngợi này!

77. Đó là một niềm vui

Không thể nào chê trách

Nó là nguồn hạnh phúc

Mà thánh nhân không chê

Nó cũng là phương tiện

Để thu phục lòng người.

78. Nếu ngươi không chấp nhận

Niềm an vui kẻ khác

[Bởi vì ngươi ganh tỵ]

Thì ngươi sẽ mất sạch

Tất cả mọi phước đức

Hiện rõ hay ẩn tàng.

79. Ai khen công đức ta

Ta mong họ an vui

Ai khen công đức người

Sao ngươi lại thờ ơ?

80. Ta phát tâm Bồ đề

Cầu mọi loài an vui

Nay chúng sinh hạnh phúc

Sao ngươi lại sân hận?

81. Lúc đầu ngươi phát tâm

Cầu mọi người thành Phật

Được ba cõi cúng dường;

Nay sao ngươi sầu khổ

Khi người khác được cúng?

82. Đối với gia đình ngươi

Ngươi phải lo cấp dưỡng

Nay kẻ khác cung phụng

Sao ngươi lại nổi sân?

83. Không cầu mong chúng sinh

Được một chút toại ý

Thì sao cầu mong chúng

Được thành tựu giác ngộ?

84. Các lễ vật cúng dường

Không đến tay khất sĩ

Ắt còn tại thí chủ

Chúng không thuộc phần ta.

Ta bận tâm làm gì

Với việc cho hay không?

85. Khất sĩ có nên chăng

Bỏ phước báo cúng dường?

Thí chủ có nên chăng

Kềm hãm hạnh bố thí?

Ngươi còn hận nỗi gì!

86. Ngươi chẳng hối lỗi mình

Do nghiệp ác gây ra

Lại tranh chấp với người

Biết tô bồi phước đức?

87-88. Kẻ thù ngươi gặp nạn

Có gì để ngươi vui?

Không phải vì ngươi muốn

Mà tai nạn xảy ra.

Dù kẻ kia bị nạn

Theo ý ngươi mong muốn

Thì ngươi được lợi gì?

Và nếu ngươi nói rằng

“Thế là tôi mãn nguyện”

Thì tai ương lớn hơn

Bám chặt ngươi sau này.

89. Đó là lưỡi câu sắc

Mà ái dục tung ra.

Lúc cá đã cắn câu

Ngục tốt mua nấu nhừ

Trong nồi đồng địa ngục.

90-91. Khen ngợi và vinh quang

Không tăng thêm công đức

Không nâng cao tuổi thọ

Và khỏe mạnh , sống lâu

Cũng không khiến thân thể

Được vui thú, khinh an.

Tuy chúng là những thứ

Mà người khôn ở đời

Tìm thấy được lợi thế.

Và với kẻ mua vui

Thì rượu chè bài bạc.

92. Vì mưu cầu danh vọng

Mà mất của, tán mạng.

Danh vọng nuốt được chăng?

Chết rồi ai vui hưởng ?

93. Khi lâu đài cát sụp,

Trẻ nít liền khóc than

Tâm ta như tâm chúng

Khi danh vọng suy tàn.

94. Lời khen là tiếng vang

Nó chẳng có trí óc

Vậy thì nó làm sao

Có thể khen tôi được?

Nhưng với ý nghĩ rằng

Ai đó vui vì tôi

Thì đó là lý do

Khiến cho lòng tôi vui.

95. Nếu niềm vui của tôi

Đến từ vui của người

Thì dù trường hợp nào

Tôi vẫn được vui tươi

Vậy sao tôi không vui

Khi có người sung sướng

Mở lời khen kẻ khác?

96. À thế ra cuối cùng

Ta vui vì được khen

Một thái độ như vậy

Khác gì trò trẻ con?

98. Danh vọng và lời khen

Quấy nhiễu tâm thanh tịnh

Làm suy nỗi lo sợ

Trước sinh tử luân hồi

Chúng nẩy sinh ganh tỵ

Đối với người đức độ.

Vì vậy bao công đức

Được chính tôi tạo ra

Sẽ trở thành mây khói.

Kẻ thù là ân nhân

99. Những kẻ nào chống đối

Và chôn danh vọng tôi

Chính họ là những người

Ngăn tôi vào nẻo ác.

100. Người tầm cầu giải thoát

Không để lợi danh buộc.

Sao ta lại tức giận

Kẻ cởi trói cho ta?

101. Khi tôi muốn đi đến

Một nơi đầy thống khổ

Nhờ phước lành của Phật

Khiến người muốn hại tôi

Đóng cửa chận đuờng đi

Không cho vào chốn khổ

Tai sao tôi giận họ?

102. Bảo rằng: “Họ cản trở

Công đức tôi muốn làm”

Cũng không nên giận họ

Vì con đường tôi chọn

Là tu hạnh nhẫn nhục.

Vậy sự ngăn chận ấy

Là điều kiện rất tốt

Giúp cho tôi tu hành.

103. Tự mình đã gây lỗi

Lại không nhẫn nhịn người

Là tôi tự cản trở

Việc tu tạo phước đức.

104. Cái này không thể có

Nếu cái kia không có

Và nếu cái này có

Thì cái kia là nhân.

Kẻ hại ta là nhân

Giúp ta tu nhẫn nhục

Sao bảo họ ngăn cản?

105. Người xin đến đúng thời

Không ngăn việc bố thí

Khất sĩ đi truyền giới

Không phải là trở ngại

Cho người muốn xuất gia.

106. Những kẻ đi ăn xin

Có mặt khắp mọi nơi

Ngược lại rất khó tìm

Những kẻ muốn hại người.

Đâu có ai hại tôi

Nếu tôi không hại ai.

107. Kẻ thù tự đến tôi

Như kho báu trong nhà

Không nhọc công tìm kiếm.

Kẻ thù ấy giúp tôi

Trên đường đến giác ngộ!

108. Có kẻ thù và tôi

Mới tác thành hạnh nhẫn

Quả báo công đức ấy

Nên dành cho kẻ thù

Đã tạo duyên tu nhẫn.

109. Nếu nghĩ rằng kẻ thù

Không có ý giúp tôi

Để triễn khai hạnh nhẫn

Nên không đáng coi trọng

Thì tôi cũng không nên

Cung kính với chánh pháp

Vì chánh pháp vô tư

Trong việc tôi tu hành?

110. Nếu không trọng kẻ thù

Vì muốn hãm hại tôi

Vậy làm sao tu nhẫn?

Tu với y sĩ ư

Kẻ hết lòng chữa bệnh?

111. Khi nhận biết ác ý

Thì nhẫn nhục phát sinh.

Duy chỉ có kẻ thù

Là nguồn gốc nhẫn nhục

Vậy nên cung kính họ

Như cung kính chánh pháp.

Yêu thương chúng sinh

112. Bởi vậy đức Phật dạy

Chúng sinh và chư Phật

Đều là ruộng phước tốt

Nhờ cúng dường cả hai

Nhiều người sẽ giác ngộ.

113. Nhờ chúng sinh và Phật

Mà ta đạt hạnh Phật

Sao chỉ cung kính Phật

Mà không kính chúng sinh?

114. Chủ tâm của chư Phật

Không đồng với chúng sinh

Song tác động ngang nhau

Đều giúp ta thành Phật.

115. Chúng sinh không số lượng

Nên cúng dường tất cả

Nhờ vậy mà nhận được

Phước đức lớn vô biên

Công đức Phật vô lượng

Nhờ cúng dường đức Phật

Cũng được phước không lường.

116. Chư Phật và chúng sinh

Tất cả đều giúp ta

Thành tựu được hạnh Phật

Song không chúng sinh nào

Có thể so với Phật

Vì biển công đức Phật

Vốn vô lượng vô biên.

117. Tuy vậy với chúng sinh

Có chút ít công đức

Thì ba cõi hợp lại

Không đủ để cúng dường.

118. Tất cả mỗi chúng sinh

Đều có sẵn Phật tính

Nên cúng dường chúng sinh

Là cúng dường Phật tính.

119. Phật là bạn chúng sinh

Ban vô lượng ân đức.

Vậy muốn báo ơn Phật

Hãy cứu giúp chúng sinh.

120. Chỉ làm lợi chúng sinh

Mới đủ báo ơn Phật.

Phật đã bỏ thân mạng

Tự vào ngục Vô gián

Để cứu độ chúng sinh

Vậy ta nên làm lợi

Cho tất cả chúng sinh

Và cho cả kẻ thù.

121. Chư Phật vì chúng sinh

Nên không tiếc thân mình

Sao tôi còn kiêu ngạo

Không phục vụ chúng sinh?

122. Người vui, Phật vui theo

Người khổ, Phật thương xót

Giúp muôn loài hạnh phúc

Thì Phật cùng hân hoan

Làm đau khổ chúng sinh

Tức làm tổn thương Phật.

123. Khi thân bị lửa vây

Làm sao vui sướng được

Khi thấy chúng sinh khổ

Các bậc Đại Từ Bi

Không thể nào an lạc.

124. Quá khứ tôi gây khổ

Cho bao nhiêu chúng sinh

Vô tình làm buồn Phật

Nay tôi xin sám hối

Xin Phật tha thứ cho.

125. Để dâng Phật niềm vui

Từ nay đến tương lai

Tôi phục vụ muôn loài

Với trái tim thành khẩn

Dầu tôi bị chà đạp

Vẫn ráng làm Phật vui.

126. Phật với tâm Đại bi

Xem chúng sinh như mình

Tất cả có Phật tính

Sao ta không tôn kính?

127. Tôn thờ Đức Thế tôn

Đạt mục tiêu giải thoát

Xoá đau khổ trần gian

Là nhiệm vụ của tôi.

128-129. Vị đại thần của Vua

Đàn áp, hại dân chúng

Kẻ nhìn xa trông rộng

Chẳng thay đổi được gì

Bởi sau lưng ông ấy

Còn thế lực của Vua.

130. Đối với kẻ yếu đuối

Đã gây nên tội lỗi

Cũng không nên tiêu diệt

Bởi vì sau lưng hắn

Là thế lực quỷ sứ

Đang giữ cửa địa ngục

Và cửa Phật từ bi

Bởi vậy với chúng sinh

Ta cần phải phục vụ

Như ta là kẻ hầu

Của vị vua dễ cáu.

131. Sự trừng phạt của vua

Đủ so sánh nổi chăng

Với thống khổ địa ngục

Do quả báo hành động

Ngược đãi hại chúng sinh?

132. Sự ban ơn của vua

Đủ so sánh được chăng

Với thành tựu Phật quả

Từ hành động lợi tha

Giúp chúng sinh an lạc?

133-134. Khoan nói đến Phật quả

Kết tựu từ hành động

Quý trọng mọi chúng sinh

Ngay trong cõi đời này

Kẻ nhẫn nhục nhận được

Bao hạnh phúc tràn đầy

Của một vị Đế vương

Ví như được danh vọng

Được sắc đẹp, vui tươi

Được sức khỏe, trường thọ.

CHƯƠNG VII: TINH TẤN

1.Sau khi đạt nhẫn nhục

Phải tu hạnh tinh tấn

Sức mạnh của chuyên cần

Là nguồn gốc giác ngộ

Nếu tinh tấn không có

Công đức sẽ không sinh

Như khi gió lặng thinh

Thì không có chuyển động.

2.Vậy Tinh tấn là gì ?

- Là làm lành, tránh dữ.

Đối nghịch với Tinh tấn

Là lười biếng, tự khinh

Nghiêng về nẻo bất chính.

Những lực đối kháng

3.Nhàn rỗi,  ham hưởng lạc

Ưa ngủ, thích dựa người

Khiến cho lòng thờ ơ

Trước luân hồi thống khổ

4.Bị tật xấu săn đuổi

Sụp vào bẩy thọ sinh

Sao ngươi không biết mình

Rơi vào miệng thần chết?

5.Ngươi thấy chăng đồng bạn

Lần lượt bị giết hại

Sao ngươi vẫn dửng dưng

Như trâu trước đồ tể ?

6.Bị tử thần rình rập

Lối thoát bị phủ vây

Sao ngươi vẫn thích thú

Ăn ngủ và yêu đương ?

7.Thần chết chuẩn bị xong

Liền tìm ngay đến ngươi

Khi ấy bỏ biếng lười

Cũng đã là quá muộn!

8-10. “Việc này tôi chưa đạt

Việc kia vừa khởi công

Việc khác còn dang dở“

Tử thần đột nhiên đến

Khiến lòng tôi suy nghĩ:

“Ôi: Mạng ta hết rồi“

Nhìn người thân tuyệt vọng

Lệ đẫm máu u sầu

Thấy sứ giả tử thần

Ray rức nhớ tội ác

Tai vang tiếng địa ngục

Cuống quít biết làm gì?

11. Như cá nằm cát nóng

Thống khổ biết dường nao !

Kinh thay lửa địa ngục

Dành riêng cho tội nhân!

12. Như da non trẻ thơ

Bỏng nước sôi đau xót

Làm sao an nhiên được

Trước quả báo địa ngục?

13. Lười mà muốn được thưởng

Khác nào đứa trẻ thơ

Thích được nước sôi dội.

Thần chết đến thình lình

Lại tưởng mình trường sinh!

Ngươi đương nhiên phải chết!

14. Hãy sử dụng thân này

Như một chiếc bè con

Để mau vượt biển khổ

Chiếc bè này mai sai

Thật vô cùng khó kiếm

Này hỡi kẻ ngu ơi!

Đừng ngủ trong lúc này!

15. Hãy theo Pháp cao thượng,

Nguồn an lạc tuyệt đỉnh.

Hãy bỏ thói hư hèn

Dẫn đưa đến khổ đau.

Phương pháp hỗ trợ cho sự tu tập tinh tấn

16. Hãy tu tập thiền định

Hãy can đảm tự tin

Và làm chủ chính mình

Hãy thực hành bình đẳng (12)

Đổi vị trí cho nhau

Đặt người vào chỗ ta

Ta đổi chỗ với người

Xem người cũng như ta.

Tự tin

17-18.  Đừng để nhụt ý chí

Vì lo lắng băn khoăn

“Mình giác ngộ được chăng“

Bởi vì Phật tuyên bố

Điều chân thật sau đây:

Nhờ sức mạnh Tinh tấn

Mà côn trùng, ruồi muỗi

Cũng tìm được giác ngộ.

19. Tôi được sinh làm người

Biết phân biệt xấu tốt

Nếu sống hạnh Bồ Tát

Chẳng lẽ không giác ngộ ?

20. Nếu nói : “Tôi lo sợ

Phải bố thí tay chân”.

Đó là thiếu suy xét

Không cân phân nặng nhẹ.

21.Trải qua vô số kiếp

Tôi đã muôn triệu lần

Bị đâm, đốt, cưa, xẻ

Song vẫn chưa giác ngộ.

22. Ngược lại, khổ hôm nay

Giúp tôi đạt giác ngộ.

Khổ này có giới hạn

Như thể lấy gai đâm

Phải chịu đau khi mổ

23. Y sĩ muốn trị bệnh

Dùng liệu pháp gây đau

Vậy cố chịu khổ nhỏ

Để diệt trừ khổ lớn.

24. Người y sĩ tài ba

Không cần liệu pháp ấy;

Bằng phương pháp dịu êm

Cũng chữa lành bệnh nặng.

25. Đấng Y Vương dạy rằng

Đệ tử lúc ban đầu

Nên bố  thí thực phẩm,

Khi tu tập nhuần nhuyễn

Mới bố thí thịt da.

26. Khi tâm đã thuần thục

Xem thân như cỏ cây

Thì khó chi bố thí

Thân thể và thịt xương!

27. Lúc ấy bậc Bồ Tát

Thoát ly mọi khổ đau

Của cả thân và tâm.

Chính tà kiến chấp ngã

Làm thân tâm khổ sầu.

28. Nhờ tạo được phước đức

Nên thân hưởng khinh an

Nhờ tinh tấn tu tập

Nện tâm hưởng thanh tịnh.

Vì lợi ích chúng sinh

Bồ Tát vào sinh tử

Nhưng chẳng hề khổ đau.

29. Nhờ năng lực bồ đề

Tẩy trừ nghiệp ác xưa

Tạo vô lượng công đức

Nên hơn hàng Thanh Văn.

30. Có bậc Hiền giả nào

Lại sinh lòng chán nản

Khi cỡi xe bồ đề

Lướt qua mọi mỏi mệt

Đi từ hạnh phúc này

Đến bao hạnh phúc khác?

Các năng lực

31. Để cứu độ chúng sinh

Cần có bốn năng lực:

Là nguyện vọng, quyết tâm

Hoan hỷ và điều độ.

Qua thể nghiệm khổ đau

Và quán sát lợi ích

Phát sinh từ việc thiện

Mà nguyện vọng lớn lên.

32.Muốn tăng trưởng Tinh tấn

Hãy trừ lực đối nghịch

Bằng sáu lực sau đây:

Nguyện, tự tin, hỷ, xả

Hy sinh và giới hạnh.

Nhu cầu làm điều thiện

33. Phải diệt trừ vô số

Lỗi của mình và người.

Trong việc thanh lọc này

Để diệt mỗi một lỗi

Phải cần vô số kiếp.

34.Trong khi ta chưa có

Một mảy may tinh tấn

Để thực sự diệt lỗi,

Song không hiểu tại sao

Tim ta không vỡ tung

Trước vô số khổ đau?

35. Khó thay việc góp nhặt

Hằng hà sa công đức

Cho tôi và cho người

Trong khi chỉ để đạt

Mỗi một công đức thôi

Phải tu vô lượng kiếp.

36. Vậy mà tôi chưa hề

Tu được công đức nào

Vô ích thay cái kiếp

Được mang thân con người!

37. Tôi chưa được hạnh phúc

Dâng lễ cúng dường Phật

Vẫn chưa cung kính Pháp

Chưa cứu giúp người nghèo.

38. Tôi chưa đem an toàn

Đến những người lo sợ

Và chưa đem hạnh phúc

Đến người bị đọa đày.

Tôi trở thành bào thai

Cũng chỉ để đau khổ.

39.“Vì trong kiếp quá khứ

Không hướng về Phật Pháp

Nên nay chịu thiệt thòi!“

Ai nhận thức như vậy

Sẽ không ngơ Chánh Pháp.

40. Đức Phật chỉ dạy rằng

Thệ nguyện làm điều lành

Là nguồn gốc phước đức

Nguyện này được khởi sinh

Từ quán chiếu thường xuyên

Về nhân quả hành động.

41. Hành động của kẻ ác

Luôn đem lại hậu quả

Là hy vọng tiêu tan

Là khổ đau, ngao ngán.

42. Do tâm nguyện hướng thiện

Mà làm nhiều việc lành

Đến đâu cũng gặp được

Những phước báo hiện tiền.

43. Những kẻ làm điều ác

Dù cầu mong hạnh phúc

Đến đâu cũng khổ đau

Do gặp quả báo ác.

44. Nhờ luôn làm việc lành

Nên Bồ tát hóa sinh

Trong lòng sen thơm ngát (13)

Với thân thể đẹp tươi

Trong hào quang chư Phật

Được nuôi nấng vinh quang

Bằng pháp âm vi diệu

Và sống như con Phật

Trước mặt đấng Như Lai.

45. Nhưng khi gieo nghiệp ác

Hậu quả sẽ bi đát

Bị ngục tốt Diêm Vương

Lột da, lóc thịt xương

Uống nước đồng sôi sục

Quỵ ngã trên sàn nóng

Bị gươm dao nung đỏ

Chém băm thịt nát nhừ.

Quyết tâm

46. Qua quán sát nhân quả

Ta cần phải phát nguyện

Quyết chí tu hạnh lành

Theo Kinh Kim Cương Tràng.

47. Trước khi làm việc gì

Hãy xét mọi khả năng

Tốt hơn thà không làm

Hơn bỏ dở công việc.

48. Nếu cứ bỏ dở việc

Sẽ trở thành thói quen

Suốt đời đời kiếp kiếp.

Từ nghiệp ác như vậy

Đau khổ mãi gia tăng

Việc nào cũng dở dang

Thì giờ đành lãng phí!

49.    Cần giữ ba quyết tâm :

Vì công việc của mình

Vì phiền não của mình

Vì năng lực của mình

“Tôi phải làm một mình“.

Đó chính là ý chí

Thúc đẩy ta hành động.

50. Đời không thể tự giúp

Vì bị phiền não buộc

Vậy tôi phải giúp đời

Vì có khả năng hơn

So với kẻ lang thang.

51.Thấy người làm việc hèn

Sao ta nỡ ngồi yên

Phải chăng ta ngã mạn

Nghĩ mình hơn kẻ khác?

Tốt nhất đừng kiêu căng.

52. Đối với cắc kè chết

Con quạ lầm tưởng mình

Là đại bàng dũng mãnh

Khi tâm ta yếu hèn

Thì một buông lung nhỏ

Cũng đủ làm hại ta.

53. Tại sao lại buông lung

Không tinh tấn hành thiện?

Ta cần phải tự tin

Và hăng hái tu hành

Dù gặp trở ngại lớn

Đều có thể vượt qua.

54. Với tín tâm kiên cố

Tôi khắc phục buông lung

Nếu không thể thắng nó

Không thể vượt Tam giới.

55. “Tôi phải thắng tất cả

Tôi không để bị thua“

Chính kiến tôi như thế.

Tôi là sư tử con

Con của đấng Chiến thắng.

56. Bất cứ chúng sinh nào

Bị kiêu căng chế ngự

Đều thật sự yếu hèn.

Kẻ nào vững tự tin

Sẽ không để gục thua

Trước kẻ thù kiêu ngạo.

57.-58. Kiêu ngạo dẫn ta đến

Số phận rất tồi tệ

Dù rằng được làm người

Cũng chẳng được vui tươi.

Ăn cơm thừa canh cặn

Xấu xí và suy nhược

Bị khinh chê khắp nơi.

Đó chính là số phận

Của những kẻ kiêu căng.

(Hỏi) “Còn những kẻ khiêm tốn

Thuộc hạng người tự tin

Thì họ như thế nào?“

59.( Đáp)  Họ là những anh hùng

Đầy chiến công oanh liệt

Thắng kẻ thù kiêu ngạo

Phá hủy sự lớn lên

Của ngã mạn đáng sợ

Rồi họ sẽ tuyên bố

Chiến công họ trọn thành

Cho thế gian đều biết (14).

60. Dù phiền não phủ vây

Họ không hề chiến bại

Hùng dũng như sư tử

Đứng giữa một bầy chồn.

61. Họ không để phiền não

Chiến thắng chế ngự mình

Như giữ gìn đôi mắt

Lúc cấp bách gặp nguy.

Hoan hỷ

62. Khi quyết làm việc gì

Bồ Tát say mê làm

Để trọn tâm vào đó

Giống như người đánh bạc

Mê say quyết ăn thua.

63. Vì mưu cầu hạnh phúc

Nên làm việc công đức

Hạnh phúc đến hay không

Nào có hề chi đâu.

Duy chỉ có việc làm

Mới chính là hạnh phúc.

Vậy nếu không làm gì

Làm sao đạt hạnh phúc?

64. Lạc thú của trần gian

Như mật trên dao bén

Người đời nếm không chán.

Nhưng đối với công đức

Dẫn dắt đến an vui

Bồ Tát chán sao được?

65. Vì vậy xong việc này

Bồ Tát làm việc khác

Như voi bị nắng thiêu

Bắt gặp được ao mát

Liền ào ngay xuống tắm.

Quên mình

66. Say sưa làm kiệt sức

Bồ Tát nghỉ xả hơi

Để rồi lại tiếp tục.

Công đức nào hoàn tất

Bồ Tát để sang bên

Sẵn sàng nhận việc khác.

Hoàn toàn quên mình

67. Bồ Tát luôn đề phòng

Cú đòn của lạc thú

Và phản công hữu hiệu

Như kiếm sĩ tài ba

Trước kẻ địch lão luyện.

68. Trong trận kiếm lỡ rơi

Kiếm sĩ vội nhặt lại

Bồ Tát cũng như vậy

Khi kiếm chánh niệm rơi

Liền nhặt lại tức khắc

Vì sợ sa địa ngục.

69. Như thuốc độc vào máu

Sẽ lan khắp toàn thân

Phiền não gặp tà kiến

Sẽ ngập tràn trong tâm.

70. Kẻ tu hạnh Bồ Tát

Phải hết sức chú ý

Như người mang bát dầu

Bị dọa chém rơi đầu

Nếu làm rơi một giọt.

71. Như rắn bò lên bụng

Tức tốc hất nó đi

Cũng vậy, phải xua ngay

Cơn lười biếng, uể oải.

72. Mỗi khi lỡ buông lung

Nên tự trách bản thân

Và suy nghĩ chín chắn

Về lỗi lầm đã làm

Để không còn tái phạm.

73. Vì vậy nên thân cận

Các bậc thiện tri thức

Để học cách tu tập

Giữ gìn được chánh niệm.

74. Trước khi làm công đức

Phải quan tâm nhớ lại

Lời dạy về chánh niệm

Và sẵn sàng tinh tấn.

75. Như bông tơ nhẹ nhàng

Bay thuận theo làn gió

Mọi việc của Bồ Tát

Tất cả đều thuận theo

Sức mạnh của Tinh Tấn

Nhờ vậy lực nhiệm mầu

Cũng được tự phát huy.

CHƯƠNG VIII: THIỀN QUÁN

1. Phát huy tinh tấn rồi

Bồ Tát tu thiền quán

Người mà tâm tán loạn

Bị giam chốn buồn phiền.

Sống ẩn dật

2. Nhờ thân, tâm xa lìa

Với cuộc đời trần thế

Bồ tát sống ẩn dật

Nên tán loạn không sinh

Thân sống thoát ly

3. Vì luyến ái [tự ngã]

Vì tham lợi tham danh

Nên bám víu trần thế.

Hãy theo bậc trí tuệ

Quán chiếu điều sau đây:

4. “Ai có tâm vắng lặng

Với trí tuệ sáng suốt

Mới diệt được buồn phiền”.

Vậy cần phải bắt đầu

Bằng tu tập an định

Những vị đã hoan hỷ

Sống ly cách thế gian

Tu theo phương pháp này

Đã đạt tâm an định.

Từ bỏ luyến ái

5. Thân ta đã hạn định

Vậy ta có thể nào

Yêu người cũng hạn định?

Dù tái sinh ngàn lần

Cũng khó gặp người xưa.

6. Tìm không gặp, sẽ buồn

Không giữ được chánh định

Nếu gặp, cũng đau khổ

Vì tâm tư sục sôi

Bao đòi hỏi thuở xưa.

7. Vì không thấy thực tại

Nên con người lãng quên

Nỗi sợ hãi địa ngục.

Vì luyến ái người yêu

Đành chịu tiếp khổ lụy.

8. Mãi bận bịu người thân

Đời trôi qua vô nghĩa

Vì bè bạn không bền

Đành xa Pháp vĩnh cửu.

9.  Ai sống như người ngu

Số phận sẽ tồi tệ.

Ai không sống giống họ

Họ không thèm trọng vọng.

Nhưng được lợi ích gì

Khi thân cận kẻ ngu?

10. Phút trước còn là bạn

Phút sau thành địch thù.

Vui cũng chuốc oán cừu

Khó thỏa lòng nhân thế.

11. Ta khuyên họ điều phải

Họ giận, kéo ta lui.

Nếu không nghe lời họ

Họ bừng bừng nổi sân

Và rơi vào ngõ ác.

12. Ganh ghét người hơn mình

Cạnh tranh kẻ bằng mình

Khinh thị người thua mình

Được khen thì khoái trá

Bị chê lại giận dữ

Với kẻ ngu như vậy

Làm bạn có ích chi?

13.  Giao du với kẻ ngu

Sẽ tự tâng bốc mình

Và hạ thấp người khác,

Ưa bàn chuyện thế tục.

Những trò vô ích này

Quanh quẩn với người ngu.

14.  Những giao du như vậy

Chỉ sản sinh bất hạnh.

Tốt hơn, sống một mình

Tâm hạnh phúc, sáng trong.

15.  Hãy lánh xa người ngu

Nếu gặp chỉ vui chào

Không phải để thân mật

Mà vì lòng an nhiên.

16.  Như ong lấy mật hoa

Tôi sống với mọi người

Vì phục vụ chánh pháp

Bình thản như trăng soi.

Từ bỏ lợi danh

17. “Ta giàu có, danh vọng

Ai cũng cầu cạnh ta »

Kẻ nào nghĩ như vậy

Sẽ sợ trước thần chết.

18.  Vì tâm ý lỗi lầm

Không biết chân hạnh phúc

Nên khoái lạc tầm cầu

Đều biến thành đau khổ

Gấp ngàn lần lớn hơn.

19. Vì vậy bậc Hiền giả

Không vướng bận tham ái.

Tham ái gây lo sợ

Chúng đều đáng buông bỏ

Hãy giữ vững kiên trì.

20. Nhiều người thật giàu sang

Danh vang khắp thiên hạ.

Cuối cùng họ về đâu

Với những lợi danh ấy?

21- 22. Thiếu gì kẻ khinh tôi

Sao tôi vui được khen?

Thiếu gì kẻ khen tôi

Sao tôi buồn bị chê ?

Chúng sinh muốn đủ điều

Phật cũng không chiều nổi

Huống chi ta ngu đần

Lo lắng làm sao được

Cho trần thế đảo điên?

23.  Kẻ nghèo họ khinh khi

Người giàu họ nói xấu

Bản chất tráo trở đó

Khiến tôi không thể gần.

24.  Đức Như Lai từng dạy

Người ngu không có bạn.

Họ thân thiện với ai

Đều chỉ vì tư lợi.

25.  Cỏ cây không nghĩ xấu

Cũng không khó kết bạn.

Ôi chừng nào tôi được

Sống an lành với chúng?

Sống nơi hoang vắng

26. Chừng nào tôi thảnh thơi

Đến ở nơi am vắng

Dưới tàng cây, hang động

Không lưu luyến trần gian.

27.  Bao giờ tôi mới được

Đến những vùng nguyên sơ

Không ai giành làm chủ

Không nhà cửa, tự do.

28.  Bao giờ tôi mới được

Ở yên không sợ hãi

Vỏn vẹn một bình bát,

Một chiếc áo cà sa

Mà kẻ trộm không thèm

Thậm chí không che thân

Đến, đi đều tự tại.

29.  Bao giờ tôi đến gần

Bãi tha ma đầy xác

Để quán tưởng thân này

Chẳng khác nào xương kia

Tất cả đều hoại diệt.

30. Mai kia tôi chết đi

Thân tôi sẽ vữa nát

Hơi thối bốc nồng nàn

Khiến chó cũng tránh chê

31. Thân này, lúc đang sống

Thịt xương dính với nhau

Chết tức thì tan rã

Thân quyến khác chi tôi.

32.  Khi sinh đã một mình

Khi chết vẫn đơn độc

Thống khổ này ai chia

Thân quyến nào ích gì

Chỉ cản trở tu tập.

33.  Lữ khách trên đường dài

Tạm trú nơi lữ quán

Người đi trong luân hồi

Tạm trú trong một đời.

34. Lúc nào tấm thân này

Chưa được bốn người khiêng

Chưa ai đưa tiễn khóc

Thì nên vào rừng tu.

35. Ở đó không người than

Cũng chẳng có kẻ thù

Một mình sống ẩn dật

Với đời như đã chết

Không ai buồn đớn đau.

36. Chung quanh đều vắng vẻ

Chẳng ai phiền khóc than

Nên khi tưởng niệm Phật

Tâm không bị tán loạn.

37. Hãy nên sống ẩn dật

Ít bận, dễ an vui

Giữa đồi nương xinh đẹp

Tâm tán loạn liền ngưng.

Tâm sống thoát ly

38.  Buông bỏ mọi lo âu

Tâm sẽ được chuyên chú

Tinh tấn tu thiền định

Chế ngự mọi đảo điên.

Ái dục

39.  Ái dục sinh ra họa

Cho đời này, kiếp sau

Đây tù tội chết chóc

Kia địa ngục khổ sầu.

40. Cũng chỉ vì ái dục

Mà ngươi đã khẩn cầu

Bao ông tơ bà nguyệt

Xe chỉ kết lương duyên.

Hãy xem xét thật kỹ

Điều ấy có tội không

Hay đem đến tiếng xấu?

41.  Tính mạng dù hiểm nguy

Gia tài dù khánh tận

Tất cả vì ái dục

Tất cả vì khoái lạc

Chỉ ôm được người đẹp

Là khoái chí tiêu hồn.

42.  Kẻ ngươi ôm ngày xưa

Cũng chỉ là bộ xương

Vô chủ, không tự tính.

Nay chết hiện nguyên hình

Sao ngươi không ôm tiếp?

43.  Mãi đến ngày lễ cưới

Người đẹp mới ngẩng  đầu.

Ngươi kéo khăn che mặt

Mới thấy được khuôn trăng

Lúc chết quấn vải liệm

Ngươi thấy mặt ấy không?

44.  Dung mạo sau khăn che

Xưa làm mê hoặc ngươi

Nay kên kên mở ra

Ngươi hãy ngắm kỹ đi!

Sao ngươi lại bỏ chạy?

45.  Ngày xưa ai lén nhìn

Ngươi vội vàng che dấu

Nay kên kên mổ ăn

Hỡi kẻ ghen nhan sắc

Sao không bảo vệ đi?

46. Ngươi nhìn khối thịt vữa

Kên kên tranh giành ăn:

Xưa kia ngươi nhọc công

Trang điểm bằng vòng hoa,

Hương liệu và nữ trang.

47.  Nhìn xương trắng bất động

Sao ngươi lại hãi kinh

Mà trước kia không sợ?

Sao không nghĩ rằng đó

Là tử thi di chuyển.

48.  Xưa nàng mặc xiêm y

Xinh đẹp làm ngươi thích

Nay xác thân trơ trụi

Ngươi có thích hay chăng ?

Mê chăng thây choàng áo?

49. Nước miếng và phân tiểu

Do thức ăn sinh ra

Sao ngươi thích nước miếng

Mà lại ghê tởm phân?

50. Những kẻ thương yêu nhau

Không thích gối nệm sạch

Vì thiếu hơi người tình

Từ thân thể tỏa ra.

51. Kẻ mê nhục dục nói:

“Cái gối tuy mềm mại

Nhưng không thể tạo được

Giấc nồng đôi uyên ương”.

Họ giận cả cái gối!

52. Ngươi không ưa thứ bẩn

Sao lại ôm thân người

Có gân xương kết nối

Với da thịt đắp lên?

53. Thân thể ngươi không sạch

Ngươi chưa hài lòng sao?

Còn ham chi túi da

Không sạch của người khác?

54. Nếu bảo chỉ thích nhìn

Và vuốt ve da thịt.

Sao ngươi không vuốt  ve

Xác chết chẳng còn hồn?

55. Vậy ngươi thích cái gì?

Là tâm người yêu chăng?

Tâm không thể sờ, thấy

Mọi thứ được cảm nhận

Qua tất cả giác quan

Đều không phải là tâm!

Vậy ôm ấp thân kia

Chẳng nghĩa lý gì hết!

56. Nếu không nhận thức được

Thân người khác không sạch

Đó chưa phải lạ kỳ

Nhưng chẳng biết mình dơ

Mới thực là kỳ lạ.

57. Hỡi cái tâm suy đốn

Sao lại bỏ đóa sen

Vừa mới nở trong nắng

Để thích túi da dơ?

58. Ngươi không muốn sờ mó

Đất cát đầy dơ bẩn

Sao ngươi muốn mó sờ

Tấm thân tiết đồ dơ?

59. Ngươi không thích dơ bẩn

Tại sao ôm vào lòng

Tấm thân của người khác

Tiết đủ thứ không sạch?

60. Con dòi sống trong phân

Ngươi không thể ưa thích

Tại sao thích thân này

Đầy chất phế thải dơ?

61. Ngươi đã không ghê tởm

Thân không sạch của mình

Sao khát khao cơ thể

Không sạch của người khác?

62. Long não và gia vị

Gạo thơm, thức ăn ngon

Từ miệng khạc nhổ ra

Làm đất bị ô nhiễm.

63. Thân không sạch cũng vậy

Ai ai cũng tự thấy.

Nếu lòng còn nghi ngờ

Hãy đi vào nghĩa địa

Quan sát những thây chết.

64. Sao ngươi thích thân người

Mặc dù đã ý thức

Khi da bị lóc ra

Trông thật đáng kinh hãi!

65. Thân không tự nhiên thơm

Ngát hương nhờ nước hoa

Chỉ vì mùi hương lạ

Mà đắm say thân nàng!

66. Mùi hôi hám tự nhiên

Không kích thích lòng dục

Không khiến mê thân thể

Đó là niềm hạnh phúc.

Bày chi chuyện độc hại

Xức dầu thơm lên thân!

67. Mùi hương trầm tỏa ngát

Can hệ gì đến thân?

Tại sao nhân mùi hương

Mà sinh lòng thích nàng?

68- 69. Thân người để tự nhiên

Với mặt, da trần trụi

Móng, tóc dài lê thê,

Răng vàng khè lốm đốm

Thân tự nhiên như thế

Trông đáng sợ vô cùng !

Tại sao phải mệt nhọc

Bỏ công săn sóc nó ?

Vậy khác chi mài gươm

Để tự giết bản thân!

Ôi! Đời đầy lũ điên

Lúc nào cũng hồ hởi

Tự mê hoặc chính mình!

70. Thấy xương ngoài nghĩa địa

Lòng ngươi sinh khiếp sợ

Sao lại vui khi thấy

Những bộ xương di chuyển

Đầy dãy khắp xóm làng.

71. Hơn nữa tấm thân này

Dầu cho không được sạch

Phải trả tiền mới có

Đời này phải phục dịch

Đời sau càng khổ hơn

Trong các cõi địa ngục.

72. Trẻ con không khả năng

Làm việc kiếm ra tiền

Nhờ đâu chúng hạnh phúc?

Lớn lên đời trôi qua

Trong công việc kiếm sống

Tuổi già đến bên chân

Sắc dục làm chi nữa?

73. Có kẻ tham nhục dục

Suốt ngày làm kiệt sức,

Tối về nhà mệt mỏi

Lăn ngủ say như chết.

74. Có kẻ vào quân đội

Khổ sầu xa vợ con

Tháng năm lòng dằn vặt

Mong ngóng ngày đoàn tụ.

75. Có kẻ vì lợi lộc

Ngu si tự bán thân

Lợi lộc chưa hề thấy

Chỉ biết hầu hạ người.

76. Có một số bà vợ

Bán thân làm tôi tớ

Trên bước đường đi xa

Phải sinh đẻ cấp bách

Dưới cây chốn rừng hoang.

77. Có kẻ tìm vinh quang

Xông pha giữa chiến trường

Không màng đến tính mạng,

Vì đi tìm vinh quang

Mà gặp cảnh tù đày!

78. Vì tham lam lợi danh

Nên thân bị tàn tật

Bị đóng cọc, gươm đâm

Hoặc giáo đâm, lửa đốt.

79. Hãy nên nhận rõ rằng

Tài sản là bất hạnh

Vì nhọc nhằn tom góp

Sợ mất phải giữ ôm.

Vì say mê tài sản

Nên không có phút giây

Giải thoát đời đau khổ.

80. Tham dục sinh phiền não

Khoái ít, khổ đau nhiều

Khác chi bò kéo xe

Được thưởng cho nhúm cỏ.

81. Chỉ vì chút cảm khoái

- Mà thú vật dễ đạt –

Nhưng người phải bôn ba

Đày đoạ thân, tâm mình!

82.- 83. Vì tấm thân bèo bọt

Mà chịu khổ trường kỳ

Rơi vào các địa ngục

Chịu số phận hẩm hiu.

Trong khi chỉ cố gắng

Chịu đựng một ít khổ

Vì công việc tu hành

Thì sẽ thành Chánh giác.

So với hàng Bồ Tát

Kẻ tham dục phải chịu

Khổ cực nặng nề hơn

Mà chẳng đạt chánh quả.

84. Dù dao kiếm, kẻ thù

Dù thuốc độc, vực sâu

Nếu so với ái dục

Không thể nguy hiểm bằng

85. Nên nhàm chán ái dục

Lìa tranh chấp, lao nhọc

Vui  với cảnh ruộng đồng

Và núi rừng an tịnh.

86. Đi bộ giữa gió rừng

Như được quạt êm mát

Thong dong trên phiến đá

Như sân thượng cung vua

Dưới ánh trăng trong lành

Mùi hương trầm ngan ngát

Nghĩ đến sự giải thoát

Cho tất cả chúng sinh.

87. Tùy ý ở lâu mau

Trong căn nhà hoang vắng

Hay nơi một gốc cây

Hoặc trong những hang đá

Tâm không bận giữ của

An nhiên đi đó đây.

88. Tự tại ở hay đi

Không vướng bận một ai

Đó là niềm hạnh phúc

Mà ngay cả Vua Trời

Cũng không thể hưởng được.

Thiền quán

89. Nhờ quán chiếu lợi ích

Của đời sống ẩn tích

Nên vọng tưởng tiêu trừ

Tập trung tu thiền định.

Quán chiếu bình đẳng

90. Trước hết nên quán chiếu

Ta với người bình đẳng (15)

Ai cũng giống như nhau

Cùng tìm vui, tránh khổ

Vì vậy phải bảo vệ

Chúng sinh cũng như mình.

91. Thân gồm nhiều bộ phận

Nhưng khi bảo vệ chúng

Ta xem chúng như “một”

Cũng vậy với chúng sinh

Tuy phân biệt nhiều loài

Song cùng chung sướng khổ

Nên xem chúng như “một”.

92. Dù cái khổ của tôi

Không hành thân kẻ khác

Nhưng vì yêu “cái Ta”

Nên thật khó kham nỗi.

93. Và cái khổ người khác

- Mà tôi không cảm nhận –

Nhưng vì yêu “cái Ta”

Nên họ cũng khó kham.

94. Phải trừ khổ cho người

Như trừ khổ cho tôi

Phải giúp đỡ người khác

Vì kẻ khác và tôi

Đều cùng là chúng sinh.

95. Tôi và người giống nhau

Đều mưu cầu hạnh phúc

Thử hỏi thứ gì khác

Khiến tìm hạnh phúc riêng?

96. Tôi và người giống nhau

Đều sợ nguy, sợ khổ

Vậy vì lý do nào

Khiến tôi chỉ cứu tôi

Mà không cứu người khác?

97. Nói rằng: “Không cứu người

Vì nỗi khổ của họ

Không hành hạ đến tôi”

Tại sao tôi bảo vệ

Và che chở cho họ?

Cũng vậy, nỗi đau khổ

Của thân thể kiếp sau

Sẽ không hành hạ tôi.

98. Nếu bảo rằng : “Kiếp sau

Thân tôi vẫn là tôi”

Điều ấy e không đúng

Vì thân lúc chết đi

Không phải thân tái sinh!

99. Bảo rằng: “Kẻ nào đau

Thì họ phải tự chữa”

Vậy khi chân bị đau

Tay không can hệ gì

Sao tay phải xoa chân?

100. Bảo: “Điều vừa biện minh

Mặc dù phi lý thật

Song bởi vì chấp ngã

Nên nó được sinh ra”.

Nhưng những gì phi lý

Dù của ta hay người

Phải cực lực trừ bỏ.

101. Tràng hạt và đội quân (16)

Thật ra là ảo tưởng

Của sự nối liên tục

Và của sự kết hợp.

Đau khổ cũng như vậy

Không ai là chủ thể

Của những sự khổ đau?

Vì vậy, ai là kẻ

Cảm nhận được khổ đau ?

102. Khổ đau không có chủ

Nó chẳng thuộc về ai.

Chỉ riêng tính khổ đau

Mới cần được tiêu trừ

Vậy cần chi phân biệt

Giữa ta và kẻ khác?

103. (Hỏi) “Nhưng nếu không có ai

Là người gánh chịu khổ

Tại sao phải diệt khổ ?”

(Đáp) Vì chúng sinh bình đẳng

Nếu cấn phải diệt khổ

Ta phải diệt khắp nơi.

Nếu không thì không cả.

Không thể diệt cho mình

Mà bỏ lơ người khác.

104. (Hỏi) “Mở lòng từ như vậy

Nỗi khổ chỉ to thêm

Vậy từ bi làm chi! ”

(Đáp) Nỗi khổ dù to hơn

Vì lòng từ mở rộng

Song thấm thía gì đâu

So với khổ muôn loài.

105. Nếu một người chịu khổ

Để nhiều người khỏi khổ

Thì kẻ có lòng từ

Sẽ gánh trọn khổ ấy.

106. Bồ tát Diệu Hoa Nguyệt (17)

Biết vua sắp hại mình

Dù vậy vẫn hy sinh

Chấp nhận chịu đau khổ

Để cứu khổ nhiều người.

107. Với tâm được điều phục

Nhờ tu hạnh bình đẳng

Thấy chúng sinh như mình

Bồ Tát vào địa ngục

Để cứu độ chúng sinh

Nhẹ nhàng như thiên nga

Sà xuống ao sen mát.

108. Giải thoát cho riêng mình

Đâu có nghĩa gì lớn;

Giải thoát được chúng sinh

Bồ Tát đươc niềm vui

Dạt dào như biển cả.

109. Giúp người được giải thoát

Bồ Tát không kiêu căng

Chuyên tâm làm công đức

Không mong được đáp đền.

110. Tôi biết bảo vệ mình

Trước bao sự nhục mạ

Vậy với tâm từ bi

Tôi càng bảo vệ người.

111. Tuy không là thực thể

Song nương theo tập quán

Nên ta đã chấp nhận

Tinh huyết của người khác (18)

Cấu tạo thành “cái Ta”.

Hoán vị giữa ta với người

112. Vậy sao ta không nhận

Thân người là thân ta?

Hoán đổi thân của mình

Thành ra thân của người

Đâu phải là chuyện khó?

113. Nếu thấy mình là xấu

Người là biển công đức

Thì nên tập thương người

Và từ bỏ chấp ngã.

114. Ai cũng nhận tay chân

Là bộ phận thân thể

Sao không thừa nhận rằng

Chúng sinh là thành phần

Của toàn bộ thế giới.

115.  Thói  quen khiến ta nhận

Thân vô ngã là “Ta”

Sao không tập thói quen

Xem người cũng là ta ?

116. Nhờ thực hiện vô ngã

Ta sẽ không kiêu căng,

Không đợi chờ đền đáp

Khi làm lợi cho người.

117. Trước đớn đau lo lắng

Ta biết bảo vệ mình.

Vậy đối với chúng sinh

Cũng phải luyện tâm ý

Biết bảo vệ, yêu thương.

118. Vì vậy đấng Bảo Vệ

Đại Bi Quán thế Âm

Đã tặng danh hiệu mình

Để giúp đỡ chúng sinh

Tiêu trừ bao sợ hãi.

119. Trước nhiệm vụ khó khăn

Ta không nên trốn chạy

Với thói quen như thế

Ta không sợ một ai

Dù xưa kia nghe tên

Ta đã từng khiếp vía.

120. Ai muốn nhanh cứu mình

Và cứu nhanh người khác

Nên đổi người thành ta

Và đổi ta thành người

Đó là bí quyết tốt.

121. Vì yêu quí thân mình

Nên luôn sợ nguy hiểm.

Thân là gốc sinh sợ

Sao không thể ghét nó ?

122. Cũng chỉ vì thân này

Mà ta đã chống chọi

Với đói khát, đau bệnh.

Dùng trăm phương nghìn kế

Bắt giết cá, chim, thú

Rình đường và cướp giựt.

123. Hoặc vì cầu lợi danh

Nhẫn tâm giết cha mẹ

Trộm tài vật Tam Bảo

Đến nỗi bị đốt thiêu

Trong địa ngục Vô gián

124. Đã là kẻ thông minh

Thì không thể bảo vệ

Và cưng dưỡng thân này

Phải xem nó là địch

Và hãy khinh khi nó?

125. Ai nghĩ rằng: “Nếu cho

Thì còn gì để ăn?”

Với lòng ích kỷ ấy

Sẽ vào đường ngạ quỷ

Ai nghĩ rằng: “Ta ăn,

Vậy bố thí gì đây?”

Với lòng thương người đó

Sẽ vào đường Vua Trời.

126. Vì mình mà hại người

Sẽ vào cõi địa ngục;

Vì người mà chịu khổ

Sẽ hưởng được hạnh phúc.

127. Vì tham địa vị cao

Nên kiếp sau thấp hèn ;

Cầu cho người được trọng

Kiếp sau được tôn sùng.

128. Sai người khác phục dịch

Kiếp sau làm tôi đòi ;

Hiến mình để phụng sự

Kiếp sau được quan quyền.

129. Ai thống khổ trên đời

Đều do nghiệp ích kỷ

Chỉ tìm hạnh phúc riêng.

Ai sung sướng trên đời

Đều nhờ nghiệp hy sinh

Đem hạnh phúc cho người.

130. Đâu cần nói nhiều lời

Hãy nhìn sự khác biệt

Giữa người ngu, bậc thánh

Người ngu vì lợi riêng

Thánh nhân vì lợi người.

131. Không đổi vui của mình

Lấy khổ đau kẻ khác

Thì ta sẽ không thể

Thành tựu quả Chánh giác,

Sẽ trôi trong luân hồi

Và mãi không an vui.

132. Tạm gác chuyện đời sau

Ngay trong đời hiện tại

Làm tôi tớ biếng lười

Thì không được lợi lộc

Vì chủ không trả công.

133. Kẻ mê muội từ chối

Việc giúp nhau tạo phúc

Lại chuyên làm khổ nhau

Nên chuốc lấy tai ương

Thật vô cùng khủng khiếp.

134. Bao bất hạnh ở đời

Như thống khổ, hiểm nguy

Đều sinh từ chấp ngã.

Vậy sao ta chấp ngã?

135. Nếu khư khư chấp ngã

Thì không thoát được khổ

Như chưa tránh xa lửa

Có lúc bị đốt thiêu.

136. Để xoa dịu khổ đau

Của tôi và của người

Tôi phải hiến thân mình

Cho bao nhiêu kẻ khác

Và xem họ là tôi.

137. Này tâm ý ta ơi!,

Ngươi nên tin chắc rằng

“Ta buộc chắc với người”

Vậy ngươi chỉ được quyền

Nghĩ đến lợi cho người.

138. Mắt và các giác quan

Chúng đã thuộc về người

Mắt không còn nhìn thấy

Những lợi riêng cho tôi

Bàn tay này cũng vậy

Nó thuộc kẻ khác rồi

Nên không còn hoạt động

Làm lợi ích cho tôi.

139. Từ nay thân thể này

Tôi hiến cho muôn loài

Hãy đem nó sử dụng

Vì giải thoát chúng sinh.

140. Hãy chọn người thấp hơn

Rồi đặt tôi vào họ

Và đặt họ vào tôi.

Nhờ vậy tôi không ngại

Khi tu tập thiền quán

Về kiêu căng, ghen ghét.

141. Hãy nghĩ như thế này (19) :

“Tôi không được kính trọng

“Tôi không giàu bằng người;

“Kẻ ấy được khen thưởng

“Còn tôi bị chê trách

“Kẻ ấy được hạnh phúc

“Còn tôi lại khổ sở.

142. “Tôi làm lụng nhọc nhằn

“Kẻ ấy sống nhàn hạ

“Tôi thân bại danh liệt

“Kẻ ấy được tán dương.

143. “Ta phải làm gì đây

“Với kẻ bất tài ấy?

“Ai cũng có tài riêng.

“Đối với rất nhiều người

“Tôi còn kém thua họ

“Nhưng cũng hơn nhiều người.

144. “Sự suy yếu giới luật

“Và kiến giải của tôi

“Phát sinh từ ái dục

“Chứ không sinh từ tôi.

“Nếu nó chữa giúp tôi

“Dù đau đớn thế nào

“Tôi cũng sẵn sàng chịu.

145. “Với tôi nó [cái Ta] không chữa

“Sao lại khinh miệt tôi?

“Nó có nhiều ưu điểm

“Song lợi gì cho tôi?

146. “Nó không có lòng từ

“Đối với kẻ xấu số

“Đang kẹt trong đường ác.

“Hơn nữa nó hãnh diện

“Về ưu điểm của mình

“Cao hơn bậc hiền đức.

147. “Đối với  kẻ ngang hàng

“Nó [cái Ta] tìm cách lấn lướt

“Thậm chí bằng tranh cãi

“Để nâng cao ưu điểm

“Và thắng lợi, thanh danh.

148. “Tôi sẽ bằng mọi cách

“Tuyên dương khắp thiên hạ

“Tính ưu việt của mình

“Và không cho ai biết

“Tính ưu việt của nó.

149. “Tôi lại phải che dấu

“Những lỗi lầm của mình

“Để tôi được trọng vọng

“Thế là tôi giàu sang

“Và được người cung kính

“Chứ không phải là nó.

150. “Tôi hoàn toàn thoả mãn

“Vì nó bị khinh khi

“Bị thế gian biếm ngạo

“Bị phỉ báng đó đây.

151. “Bởi kẻ khốn cùng này

“Muốn so đọ với tôi

“Thử hỏi xem sắc đẹp

“Hay trí tuệ, hiểu biết

“Dòng họ, tài sản nó

“Làm sao bằng tôi được?”

152. “Mỗi khi nghe mọi người

“Ca tụng ưu điểm tôi

“Tôi sướng ran cả người

“Vui dựng cả tóc gáy.

153. “Nếu nó còn tài sản

“Tôi sẽ dùng bạo lực

“Để chiếm đoạt tất cả.

“Nếu nó phục dịch tôi

“Tôi cho nó đủ sống.

154. “Tôi phải đuổi nó khỏi

“Niềm hạnh phúc an vui

“Và chất lên lưng nó

“Những nhọc nhằn của tôi.

“Nó phải bị chìm nổi

“Trong sinh tử luân hồi

“Vì nó hàng trăm lần

“Đã làm tôi thiệt hại“.

155. Hởi này tâm ý ơi !

Trải qua vô số kiếp

Ngươi tầm cầu tư lợi

Chịu bao nhiêu nhọc nhằn

Chỉ để gặt đau khổ.

156. Hãy nhận lấy lời khuyên

Hoán vị với người khác

Làm đúng theo Phật pháp

Tất được lợi mai sau.

Lời Phật dạy không sai.

157. Nếu xưa tôi tu tập

Hoán đổi mình với người

Tất thành bậc giác ngộ

Không khổ như ngày nay.

158. Ngươi bám chặt ý thức

Rằng cái “Ta” kết tụ

Từ tinh huyết mẹ cha

Vậy ngươi cũng nên tập

Xem kẻ khác là ta.

159. Hãy như điệp viên lạ

Quan sát kỹ thân này

Thấy có gì lợi ích

Hãy đem cho chúng sinh.

160. [Cái Ta luôn nghĩ rằng]

Ta tốt, họ xấu xa

Họ hèn, ta cao trọng

Ta làm, họ ở không

Vì vậy với cái “ta”

Hãy hoàn toàn ghét nó.

161. Cần phải đuổi cái “ Ta”

Ra khỏi niềm hạnh phúc

Và trói chặt nó vào

Đau khổ của người khác.

Hãy canh chừng cẩn mật

Việc mờ ám của nó.

162. Hãy đổ lên đầu nó

Mọi lỗi lầm kẻ khác

Và khai trước đức Phật

Mọi sai trái của nó

Dù nhỏ nhặt đến đâu.

163. Hãy dìm tiếng tốt nó

Bằng cách nâng cao lên

Tiếng tốt của người khác.

Hãy bắt nó hầu hạ

Làm tôi tớ chúng sinh

Đáp ứng mọi nhu cầu.

164.  Không vì vài hạnh tốt

Của “cái Ta” lỗi lầm

Mà vội vàng khen ngợi.

Nếu nó có hạnh tốt

Cũng đừng cho ai hay.

165. Tóm lại, cần phải đổ

Lên đầu của “cái Ta”

Tất cả những phương hại

Mà nó mang đến người

166. Đừng cho nó quyền hành

Để thành kẻ lắm miệng

Hãy bắt nó e thẹn

Kín đáo và rụt rè

Như cô dâu mới cưới.

167. “Phải làm như thế này”

“Phải đứng như thế kia”

“ Không được làm gì cả”

Phải khống chế “cái Ta“

Bằng cách đối xử ấy

Và nếu nó vi phạm

Phải trừng phạt nó ngay.

168. Này tâm của tôi ơi!

Nếu ngươi không làm vậy

Như đã được ủy thác

Thì sẽ bị trừng trị

Vì bao nhiêu lỗi lầm

Rốt cuộc nằm tại ngươi.

169. Ngươi muốn đi đâu đó?

Ngươi không thoát ta đâu!

Ta đập tan tành hết

Thói kiêu ngạo của ngươi

Thời ngươi hủy hoại ta

Nay đã qua lâu rồi.

170. Ngươi hãy bỏ hy vọng

Tìm lợi riêng cho mình

Ngươi đã bị bán rồi

Dù ngươi rất tuyệt vọng

Cũng chẳng ai quan tâm.

171. Nếu ta thiếu thận trọng

Không bán ngươi cho người

Chắc chắn ngươi trao ta

Cho quỷ sứ địa ngục.

Không nghi ngờ gì nữa !

172. Đã bao nhiêu lần rồi

Ngươi bán ta cho chúng

Ta đã bị hành hạ.

Nay nhớ lại thù xưa

Ta quyết tiêu diệt ngươi.

Hỡi cái tâm ích kỷ

Chỉ biết làm nô lệ

Cho lợi riêng của mình!

173. Đừng chiều chuộng “cái Ta“

Nếu ngươi muốn yêu ngươi

Đừng che chở cái

Ta Nếu muốn bảo vệ mình.

Tổng kết

174. Thân càng được che chở

Nó càng nhỏng nhẽo hơn

Nó càng bị sa đọa.

175. Và nó càng sa đọa

Ái dục nó càng tăng

Với tài sản quả đất

Cũng không làm thỏa mãn.

176. Ai ham muốn g điều gì

Mà không thể có được

Thì chuốc lấy thất vọng

Kẻ dứt hết mong cầu

Lại được phước vô biên.

177. Hãy ngăn sự tự do

Trong vấn đề hưởng lạc

Để phục vụ thân xác.

Hãy mong cầu những gì

Mà ta không muốn nhận.

178. Thân xác này không sạch

Trông đáng sợ làm sao !

Cuối cùng chết cứng đơ

Và trở thành tro bụi.

Tại sao ôm giữ nó

Và xem nó là “Ta” ?

179. Dù sống hay là chết

“Bộ máy” này ích gì?

Nó khác gì cục đất?

Ôi ý thức chấp “Ta”

Hãy diệt đi cho rồi !

180. Vì phục dịch thân này,

Tôi chịu bao đau khổ.

Dù bị ghét, được thương

Nó cũng như khúc gỗ.

Tôi cũng không được gì !

181. Dù che chở thế nào

Hay vứt cho quạ ăn

Nó chẳng biết thương, ghét

Một tấm thân như thế

Thương mãi để làm chi?

182.  Nó không hay, không biết

Khi nó bị lăng nhục

Song tôi sôi tiết lên.

Khi nó được tôn vinh

Thì tôi rất hả dạ.

Vì ai tôi như thế?

183. Ai thương thân xác này

Kẻ ấy trở thành bạn

Ai cũng thương thân họ

Sao không là bạn tôi?

184. Bởi thế, tôi thản nhiên

Cống hiến thân xác này

Vì sự nghiệp  giải thoát

Cho tất cả chúng sinh.

Từ nay tôi mang nó

Như là một công cụ

Dù nó đầy lỗi lầm.

185.-186 Thôi đã đủ lắm rồi

Nếp sống kẻ phàm phu

Nay theo chân Hiền giả

Khắc ghi lời giáo huấn

Chánh niệm luôn giữ gìn

Chống lại tính dã dượi

Và lừ đừ ngủ gật.

187. Để chướng ngại tiêu trừ

Tâm phải rời tà kiến

Tinh tấn luôn phát huy

Chuyên cần tu chánh định.

CHƯƠNG IX: TRÍ TUỆ

DẪN NHẬP

1. Đức Phật tuyên bố rằng

Các hạnh Ngài khuyên dạy

Đều đưa đến trí tuệ.

Bồ Tát mong trừ khổ

Phải phát huy trí tuệ.

HAI CHÂN LÝ

Định nghĩa

2. Có hai loại chân lý

Là chân lý thế gian (20)

Và chân lý tuyệt đối (21)

Đối tượng của trí tuệ

Không phải là chân lý.

Và chân lý thế gian

Được xem là trí tuệ..

Trình độ nhận thức khác nhau

3.-4.Tương ứng hai chân lý

Cũng có hai hạng người

“Thiền gia” và “người thường”.

Thiền gia hay bác bỏ

Quan niệm của người thường.

Thiền gia có hai cấp

“Thấp”, “cao” tuỳ trí tuệ.

Thiền gia và người thường

Cả hai đều công nhận

Sự hiện hữu của pháp.

Nhưng người thường khẳng định

Các pháp là chân lý.

Song thiền gia quan niệm

Thế giới là mộng ảo.

Tất cả là hiện tượng.

Chúng không có tự tính.

Nhưng vì muốn giác ngộ

Thiền gia phải tu học

Dùng chúng làm phương tiện

Để dần dần tiến lên.

5. Người thường nhìn sự vật

Xem chúng là có thật.

Ngược lại, các thiền gia

Xem chúng là ảo tưởng.

Đó là sự khác biệt

Giữa thiền gia người thường.

Phản bác chung các lập trường chấp vào thật hữu

6. Theo quy ước thế gian

Mọi đối tượng cảm nhận

Được xem như có thật

Song dưới mắt trí tuệ

Thì quy ước ấy sai

Như xem bẩn là sạch.

7. Để người thường hiểu đạo

Phật giảng pháp vô thường.

Nhưng trong mỗi sát na

Pháp cũng không có thật.

(Hỏi) Phải ý ấy nói rằng

Pháp có trong thoảng chốc

Là chân lý thế gian?

Điều này thật mâu thuẫn

[Đối với sự cảm nhận

Về chân lý tuyệt đối].

8. (Đáp) Mâu thuẫn ấy không có

Vì thiền gia nhận thức

Rằng chân lý thế gian

Vốn không có tự tính.

Mọi pháp đều vô thường

Có đó liền tan biến.

Nhưng so với người thường

Duy chỉ có thiền gia

Nhận thức được sự thật

Nếu không anh mâu thuẫn

Với quan niệm thế gian

Khi anh đánh giá rằng

Người nữ không sạch sẽ

[Trong khi người thế gian

đánh giá họ là sạch]

9. (Hỏi) Làm sao đạt công đức

Khi thờ một vị Phật

Được xem như ảo tưởng?

Và sẽ như thế nào

Đối với vị Phật thật?

(Đáp) Cúng dường vị Phật thật

Sẽ có công đức thật

Cúng dường vị Phật ảo

Sẽ có công đức ảo.

(Hỏi) Nếu như một hữu tình

Được xem như ảo tưởng

Làm sao nó chết được?

Và có thể tái sinh?

10. (Đáp) Người ảo chỉ tồn tại

Cho đến khi nhân duyên

Còn phối hợp đầy đủ.

Đâu vì sự liên tục

Của nhân duyên kéo dài

Mà có thể khẳng định

Con người hiện hữu thật!

11. Khi giết hại người ảo

Không thể bị tội lỗi

Vì họ thiếu tâm ý.

Song với một hữu tình

Trang bị tâm ý ảo

Thì tội phước phát sinh.

12.-13. (Hỏi) Thần chú và ảo thuật

Không thể có công năng

Tạo tác ra tâm ảo.

(Đáp) Tâm ảo vốn đa dạng

Sinh từ nhiều loại duyên

Chỉ một duyên đơn độc

Không thể sinh tất cả.

14.-15. (Hỏi) Theo chân lý tuyệt đối

Thì tất cả chúng sinh

Đều ở trong Niết Bàn

Và chúng chỉ luân hồi

Theo chân lý thế gian.

Vậy Phật cũng luân hồi.

Như thế ích lợi chi

Khi tu hạnh Bồ Tát?

(Đáp) Chừng nào duyên chưa dứt

Ảo tưởng vẫn tồn tại.

Khi duyên bị gián đoạn

Thì ảo tưởng không còn.

Nhưng Phật đã dứt sạch

Mọi nhân duyên ảo tưởng

Nên không còn luân hồi.

Phản bác lập trường lý tưởng

Duy Thức (viết tắt: DT)

Trung Quán (viết tắt :TQ)

16. (TQ) Nếu pháp không có thực (22)

Cả tâm ảo cũng không

Vậy ai biết được ảo?

(DT) Mặc dù pháp bên ngoài

Chỉ là hiện tượng ảo

Song là bóng dáng tâm

Nên vẫn tồn tại riêng.

17. (TQ) Nếu ngay cả tâm thức

Và ảo tưởng là một

Vậy cái gì bị biết?

Đức Thế Tôn từng dạy

Tâm không thấy được tâm.

18. Cũng như một lưỡi gươm

Không thể tự chém mình.

Tâm không thể quán tâm.

(DT) Tâm tự chiếu rọi tâm

Như ánh đèn tự chiếu.

19. (TQ) Điều ví dụ này sai

Ánh đèn không tự sáng

Vì không bị tối che.

(DT) Màu xanh tự nó xanh

Như ngọc lưu ly xanh

Không lệ thuộc vật khác.

20. Cũng thế ta nhận thấy

Có cái tùy nhân duyên

Và có cái độc lập.

(TQ) Ví dụ này cũng sai.

Màu xanh không tự tánh

Xanh nhờ ngọc lưu ly (làm duyên)

Nếu nó thiếu nhân duyên

Không thể tự hóa xanh.

21. (DT) Nếu nói tâm tự biết

Thì cũng có thể nói

Ánh đèn tự chiếu sáng.

(TQ) Ví như thừa nhận rằng

Ánh đèn tự chiếu sáng

Nhưng ai biết điều ấy?

Ai nói tâm tự chiếu?

22. Nếu không có thứ gì

Nhận biết tâm tự chiếu

Thì tâm chiếu hay không

Đều chẳng thành vấn đề.

Giống như bàn chuyện phiếm

Về sắc đẹp bé gái

Của phụ nữ vô sinh (23) .

23.-24.(DT) Nếu tâm không hiện hữu

Làm sao nhớ chuyện xưa?

(TQ) Ký ức được xuất hiện

Vì nhờ mối tương duyên

Với cảnh vật bên ngoài

Mà đã từng trải nghiệm

Như gấu nhiễm độc chuột (24) .

25. Người có tâm siêu nhiên (25)

Thấy được tâm người khác

Chẳng lẽ họ không thấy

Tâm của mình hay sao?

(TQ) Mắt nhờ bôi nước phép

Thấy kho tàng dưới đất

Nhưng mắt không thể thấy

Nước phép bôi trên mắt.

26. Trong thế giới kinh nghiệm

Chúng tôi không phủ nhận

Những điều được nhận biết

Từ giác quan cảm thụ

Từ lưu truyền đáng tin.

Song chúng tôi bác bỏ

Giả định chúng là thật

Vì đó là nguyên nhân

Tạo nên sự khổ đau.

27. Nếu các anh nghĩ rằng

Ảo tưởng chẳng khác tâm

Song chúng tôi nhận xét

Chúng không thể giống nhau

Nếu ảo tưởng thật có

Thì nó phải khác tâm

Nếu ảo tưởng giống tâm

Nó đâu còn là nó.

28. (TQ) Dầu cảnh ảo không thật

Song nó vẫn bị thấy

Dầu tâm không thật có

[Theo chân lý thế gian]

Tâm vẫn thấy cảnh ảo.

(DT) Luân hồi của hiện hữu

Phải dựa vào hiện thực

[Tức là dựa vào tâm]

Nếu không thì luân hồi

Chẳng khác nào hư không

[Tức là không thể có

Tác dụng của nghiệp quả].

29. (TQ) Làm sao cái không thực

[Như luân hồi chẳng hạn]

Phải dựa nền tảng thật

Để có được tác dụng

[Tạo ra vật có thật]?

Như vậy theo các anh

Tâm không cần đối tượng

Vậy là tâm độc lập.

30. Và nếu tâm độc lập

Với tất cả đối tượng

Thì tất cả chúng sinh

Đều đã thành Phật rồi.

Và nếu thật như vậy

Thì được công đức gì

Khi chỉ có tâm thôi?

Phương pháp của Trung Quán

31. (Hỏi) Làm sao dứt phiền não

Một khi biết được rằng

Thế gian là ảo tưởng

Giống như người phù thủy

Say mê một ảo nữ

Do mình tạo tác ra?

32. (Đáp) Trong trường hợp như vậy

Người phù thủy chưa dứt

Sự luyến ái đối tượng

Gán người mình tạo ra

Là hữu thể thật sự.

Hơn nữa có nhận thức

Yếu ớt về Tánh Không

Nên khi thấy ảo nữ

Liền khởi lên say mê.

33. Khi tu tập Tánh Không

Đến trình độ kiên định

Sẽ trừ được cái thấy

Sự vật vốn thực có.

Tu tập càng nhuần nhuyễn

Sẽ nhận thức rõ rằng

Không pháp nào thực có

Thì cuối cùng ý niệm

Về Tánh Không cũng tan.

34. Đến khi hết vấp phải

Bất cứ hiện hữu nào

Mà có thể phủ nhận

Thì cái không-hiện-hữu

Cũng tan biến trong tâm.

35. Khi cái có, cái không

Không còn khởi trong tâm

Thì đâu còn cái gì

Có thể khởi lên nữa

Và tâm thật thanh tịnh.

36. Cũng như cây như ý (26)

Làm thoả mãn ước vọng

Của bao nhiêu chúng sinh.

Vì lời nguyện của Phật

[Thuở tu hạnh Bồ Tát]

Và lòng thành chúng sinh

Mà thân Phật ảnh hiện

[Để giải thoát chúng sinh]

37. Có người Bà La Môn

Xây tháp chim đại bàng

[Để giải trừ chất độc]

Dù ông chết đã lâu

Xá lợi Garuda

Do ông đã trì chú

Vẫn tác dụng trị độc.

38. Lúc còn là Bồ Tát

Đức Phật đã thành tựu

Bao hạnh nguyện bồ đề

Dù Ngài đã nhập diệt

Nhưng xá lợi của Ngài

Vẫn luôn luôn tiếp tục

Đem lợi đến chúng sinh.

39.- 40. (Hỏi) Thờ lạy tượng vô tri

Sao lại được công đức?

(Đáp) Theo kinh điển đã dạy

Trên chân lý thế gian

Hay chân lý tương đối

Công đức của thờ lạy

Hoàn toàn giống như nhau

Dù với Phật tại thế

Hay sau khi nhập diệt.

MỤC ĐÍCH GIẢI THOÁT CỦA TIỂU THỪA CŨNG CẦN PHẢI CÓ NHẬN THỨC VỀ TÁNH KHÔNG

41. (Thắng Luận)

Nhờ tu Tứ Diệu Đế

Cũng đủ đạt giải thoát

Cần chi đến trí tuệ

Thấy rõ được Tánh Không?

(TQ) Kinh Bát Nhã dạy rằng

Thiếu tuệ giác Bát Nhã

Thì không thể giác ngộ

Tính chân chánh của Đại thừa

42. (Thắng Luận) Song giáo lý Đại Thừa

Không do Phật thuyết giảng

Nên không đáng tin cậy.

(TQ) Vậy vì lý do nào

Khiến Tiểu Thừa đáng tin?

(Thắng Luận)

Vì tất cả hai phái

[Tiểu Thừa và Đại Thừa]

Đều xác nhận như vậy.

(TQ) Vậy thì lúc trước đây

Các anh chưa chấp nhận

Không lẽ kinh điển ấy

Không phải lời Phật dạy?

43. (Thắng Luận)

Chúng vẫn đáng tin cậy

Vì chúng được truyền thừa

Liên tục không gián đoạn.

(TQ) Lý do các anh tin

Kinh điển của Tiểu Thừa

Chẳng khác chúng tôi tin

Kinh điển của Đại Thừa.

Chúng cũng được các Tổ

Nối tiếp nhau truyền thừa

Không bao giờ gián đoạn.

Lại nữa theo các anh

Tất cả kinh điển nào

Được hai phái chấp nhận

Cũng đều là chân lý.

Vậy thì phải chấp nhận

Cả kinh điển Vệ Đà

Và kinh điển ngoại đạo.

44. (Thắng Luận)

Kinh điển của Đại Thừa

Thường hay bị tranh cãi

Vì vậy không đáng tin

(TQ) Vậy kinh của các anh

Cũng nên từ bỏ luôn

Vì chúng bị ngoại đạo

Và nội phái tranh cãi.

Sự chưa trọn của Tiểu Thừa

45. Gốc rễ của giáo lý

Mà đức Phật giảng dạy

Bắt nguồn từ Niết Bàn

Và đời sống tu hành

Của các vị xuất gia

[Đã sạch mọi phiền não].

Điều này hiếm người đạt

Bởi vì tâm của họ

Còn bám víu đối tượng (27)

46.- 47. (Thắng Luận)

Các bậc A La Hán

Dù không hiểu Tánh Không

Cũng vẫn được giải thoát

Vì đã diệt phiền não

Nhờ tu Tứ Diệu Đế

(TQ) Dù phiền não chấm dứt

Song chắc gì hết khổ?

Nhiều vị vẫn thọ khổ

Do nghiệp lực quả báo

Từ quá khứ vẫn còn

[Thông qua sự lưu truyền

Mà chúng tôi được biết

Chính ngài Mục Kiền Liên

Tuy thành A La Hán

Song vẫn còn thọ khổ].

48. (Thắng Luận) Ái sinh từ cảm thọ

Những A La Hán ấy

Vẫn còn có cảm thọ

Tâm còn bám đối tượng

[Nên không đạt Niết Bàn]

48. Không hiểu biết tánh không

Thì tâm bám sự vật

Tâm chỉ tạm lắng yên

Trong những khi nhập định

Rồi trở lại như trước.

Vậy muốn chấm dứt khổ

Phải tu quán Tánh Không.

Chớ sợ Tánh Không

Câu 49-52.: Bỏ (28)

53. (Hỏi) Vừa chấp vào hiện hữu

Vừa sợ hãi Tánh Không

Nên không thể giác ngộ

Vẫn nhận lấy đau khổ

Chìm đắm trong luân hồi.

54. (Đáp) Sự phản bác như vậy

Thực không có căn cứ

Vậy không nên ngại ngần

Thiền quán về Tánh Không.

55. Tánh Không là liều thuốc

Dùng đối trị Vô minh

Của chướng ngại phiền não

Và chướng ngại hiểu biết (29)

Muốn đạt “Nhất Thiết Trí”

Phải thiền quán Tánh Không.

56. (Phản bác)

Tánh Không gây đau khổ

Nó khiến tôi lo sợ.

(Đáp) Tánh Không làm lắng dịu

Tất cả mọi khổ đau

Tại sao lại sợ nó?

57. Chừng nào còn tin rằng

“Cái Ta” là có thật

Chừng ấy còn sợ hãi

Về cái này cái kia.

Nếu nhận thức rõ rằng

"Cái Ta" không có thật

Vậy ai gánh nỗi sợ?

CHỨNG MINH VỀ TÁNH KHÔNG

Chứng minh về  sự Vô ngã của một "Cái Ta" có thật

"Cái Ta" không phải vật chất – Phản bác lại chủ nghĩa vật chất

58-60. Răng, tóc, móng, máu xương

Đều không phải là "Ta"

Mủ, đờm, nước miếng, mỡ

Nước tiểu, phân, thịt, gân

Hơi nóng, chín lỗ hổng …

Và tất cả sáu thức

Cũng không phải là “Ta”

Ngã cũng không phải là tinh thần –

Phản bác phái Số Luận (30)

61. (TQ) Nếu nhĩ thức là “Ta”

Thì luôn nghe âm thanh (31)

Cả lúc nó vắng mặt

[Vì các anh cho rằng

"Cái Ta" là vĩnh cửu]

Nếu đối tượng cái biết (32)

Không còn có mặt nữa

Làm sao có cái biết?

Vậy vì lý do nào

Gọi đó là nhĩ thức?

62. Nếu xem rằng cái biết

Là những gì không biết

Thì gỗ cũng phải biết

Vậy có thể khẳng định

Nếu không có quan hệ

Với đối tượng nào đó

Thì không có cái biết.

63. (Số Luận) Vì lẽ nào "Cái Ta"

Khi thấy biết màu sắc

Lại không nghe âm thanh?

(TQ) Tại sao cùng một lúc

Thấy được mà không nghe?

(Số Luận) Vì âm thanh lúc ấy

Không có mối quan hệ.

(TQ) Như vậy thì "Cái Ta"

Không phải là nhỉ thức.

64. Cái mà bản tánh nó

Vốn thâu nhận âm thanh

Sao lại thấy hình sắc?

(Số Luận)

Cùng một người đàn ông

Có thể xem là cha

Vừa cũng xem là con.

(TQ) Như thế là giả danh

Theo chân lý tuyệt đối

Không thể nào như vậy.

65. Bởi vì theo các anh

Thực tại là ba đức (33)

Từ bi, mê, bóng tối

Đã tạo ra vật thể

Chẳng là cha hay con

Cả ba không sẵn có

Tính chất nghe âm thanh.

66. (Số Luận)

Cũng như một diễn viên

Đóng nhiều vai thay đổi

Tánh thâu nhận âm thanh

Có thể chuyển thành ra

Tánh nhận thấy hình sắc.

(TQ) Thường thay đổi tính chất

Thì không thể vĩnh hằng.

Vậy điều anh nói rằng

Trong cùng một cái ta

[Hay trong một diễn viên]

Chứa đựng nhiều tính chất

Là điều chưa từng có.

67. Nếu tánh chất đổi khác

Thì không thực có được.

Vây xin anh chỉ giúp

Thực tánh nó là gì?

Bản chất nó là gì?

(Thường Luận)

Đó chính là tánh biết (32)

(TQ) Nếu thức là bản chất

Thì chúng sinh như nhau

Cùng một thứ độc nhất!

68. Vã lại mọi chúng sinh

Hữu tâm hay vô tâm

Đều như nhau là “Một” (34)

Vì bản chất hiện hữu

Của chúng đều giống nhau.

Nếu hình thái khác biệt

[Các tánh nghe, thấy, ngửi…]

Được xem là không thực

Thì nền tảng của nó ["cái Ta"]

Làm sao có thực được.

Phản bác phái Thường Luận

69. Hơn nữa cái vô tâm

Cũng không phải là “Ta”

Vì nó không hay biết

Như khúc gỗ vô tri.

(Thường Luận)

Dầu bản chất vô tri

Song khi kết với tâm

Liền có ngay nhận thức.

(TQ) Điều này thật vô lý

Vì khi không có tâm

Nhận thức cũng bị diệt.

70. Nếu "Cái Ta" không đổi

Thì tâm giúp được gì

Cho "Cái Ta" như thế?

Nếu xem cái bất động,

Không nhận thức là “Ta”

Vậy thì hư không kia

Cũng phải xem là “Ta”!

Không cần có "Cái Ta" cũng có được nhân quả của công đức

71. (Thường Luận)

Nhưng không có "cái Ta"

Thì không có liên hệ

Giữa nhân và quả được.

Vì khi làm xong việc

Kẻ tạo nghiệp ("cái Ta") không còn

Vậy ai nhận quả đây?

72. (TQ) Tạo nghiệp và nhận quả

Thuộc hiện hữu khác nhau

[Năm Uẩn (35) của đời này

Là kẻ đã tạo nghiệp

Và năm Uẩn đời sau

Là người nhận quả báo]

Anh bảo có "cái Ta" (có Ngã)

Song không ai nhận quả

Tôi bảo không có “Ta” (Vô Ngã)

Và không ai tạo nghiệp

Cũng không ai nhận quả

Vậy tranh luận "cái Ta"

Chỉ là một việc thừa.

73. (Thường Luận)

[Như trong kinh có nói]

Ai đã tạo ra nghiệp

Thì phải nhận quả báo.

(TQ) Theo lời Phật đã dạy

Trong một dòng tương tục

[Của đời sống một người]

Thì ai làm nấy chịu

[Vì muốn ngăn người ấy

Chối bỏ luật nhân quả]

Chứ Phật không phải dạy

"Cái Ta" là vĩnh hằng.

74. Ý niệm của quá khứ

Cũng như của tương lai

Đều không phải là “Ta”

Vì chúng không có thực

Nhưng ý niệm hiện tại

Cũng không phải là “Ta”.

Ví dù nó là “Ta”

Nghĩ xong nó biến mất

Và “Ta” cũng mất luôn.

75. Ví như thân cây chuối

Khi bẹ bị lột hết

Nó không hiện hữu nữa.

"Cái Ta" chẳng khác hơn

Khi bị phân tích kỹ

Thì không thấy nó đâu

Vậy nó không thật có.

[Không thể nào tìm thấy

"Cái Ta" trong năm Uẩn]

Không có “Cái Ta” cũng  có thể phát triển được tâm từ bi

76. (Hỏi)

Nếu chúng sinh không thực

Vậy xót thương ai đây?

(TQ) Đó là những chúng sinh

Được nêu từ mê lầm

Của chân lý thế gian.

Tuy chúng không có thật

Song là đối tượng tốt

Của mục đích tu tập

[Để đạt quả Bồ Tát].

77. (Hỏi) Nếu chúng sinh không thật

Vậy thì ai là người

Theo đuổi mục đích ấy?

(Đáp) [Theo chân lý tuyệt đối]

Thực không có chúng sinh.

Tất cả mọi nỗ lực

Đều dựa trên si mê.

[Theo chân lý tương đối]

Ta không nên khước từ

Sự mê mục đích ấy

[Tức tu hạnh Bồ Tát]

Vì muốn dứt khổ đau.

78. Phát sinh từ si mê

Nên bám víu "cái Ta".

(27) Ý thức chấp “Ta” tăng

Là nguyên nhân khổ đau

Vậy phải trừ diệt nó.

Do đó cách tốt nhất

Là tu quán Vô ngã.

Chứng minh về tính Vô ngã của vạn pháp thông qua Bốn Niệm Xứ: thân, thọ, tâm, pháp

Về thân

Tranh luận với trường phái Thường Luận

79.-80. Thân không phải là chân

Đùi, vế, eo, lưng, bụng

Thân không  phải là tay

Ngực, nách, vai, cổ, đầu…

Vậy thứ nào là thân?

81. Nói thân là tất cả

[Thì không thể đúng được]

Vì mỗi một bộ phận

Đều ở vị trí riêng.

Còn cái thân độc lập

Thì nằm ở chỗ nào?

82. (Với Tiểu Thừa)

Nếu thân xem là “Một”

Nằm riêng trong mỗi phần

Vậy có bao nhiêu phần

Phải có bấy nhiêu thân.

83. Vậy thì thân không nằm

Bên ngoài hay bên trong

[Của tất cả bộ phận]

Song lìa các bộ phận

Tâm cũng không hiện hữu.

[Vậy các anh hãy chỉ]

Thân hiện hữu cách nào?

84. Thân thể không thực có

Vì cấu tạo đặc biệt

Nên lầm nhận có thân

[Ví như đầu, mình, chân …]

Như trong tối lầm nhận

Cây cột là hình người.

85. Chừng nào duyên còn hợp

Cột vẫn trông như người.

Bao lâu mà tay chân

Đầu mình… còn tập hợp

Chừng ấy còn nhận lầm

Đó chính là thân người.

86. Và bàn chân là gì?

Là tập hợp các ngón

Mỗi một ngón là gì

Nếu không là các lóng?

87. Chẻ lóng chân thành bụi

Rồi chẻ mãi không ngừng

Nhỏ tựa như hư không

Vậy tìm đâu lóng chân?

88. Bởi vậy muôn hình sắc

Khác nào bóng chiêm bao!

Ai là bậc có trí

Không thể bám víu chúng

Thân còn không có thật

Huống chi sự phân biệt

Giữa đàn ông, đàn bà.

Về cảm nhận (cảm thọ)

89. (TQ) Nếu đau đớn có thật

Sao nó không hành hạ

Một kẻ đang sướng vui?

Nếu thú vui có thật

[Như các món ăn ngon]

Sao không gây thích thú

Cho kẻ đang u sầu?

90. Nếu bảo rằng cảm giác

Khổ vui vẫn tồn tại

Song không thể nhận ra

Khi chúng bị lấn áp

Bởi cảm giác mạnh hơn.

Nhưng đâu là cảm giác

Khi không cảm nhận được?

91. (Đáp) Vẫn cảm nhận được chứ!

Vì trong khi đang vui

Khổ vẫn còn tồn tại

Trong trạng thái cực yếu

[Vì khổ bị lấn áp

Bởi cái vui mạnh hơn].

(TQ) Vậy cái khổ cực yếu

Không thể gọi là khổ

Bởi vì một cảm giác

Không thể cùng một lúc

Vừa khổ cũng vừa vui.

92. [Theo một quan niệm khác]

Khổ không thể xuất hiện

Khi cảm giác đối lập (vui)

Đang xuất hiện trong tâm.

Điều này cũng sai lầm

Vì đó là ảo tưởng (36)

[Xem khổ chưa hiện hữu

Cũng là một cảm giác]

93. Để trừ khử ảo tưởng

Cần trao dồi trí tuệ

Để thấy “tánh không thực”

Của tất cả sự vật.

Vì vậy các Thiền gia

Luôn tự nuôi dưỡng mình

Bằng nhập định quán xét

Về ảo tưởng cảm nhận.

94. Giác quan và đối tượng (37)

Khi chúng xúc chạm nhau

Sẽ sinh ra cảm nhận (cảm thọ)

Nếu chúng có khoảng cách

Làm sao chúng chạm nhau?

Nếu không có khoảng cách

Ắt chúng phải là một.

Như vậy thì cái nào

Gặp gỡ với cái nào?

95. Các hạt bụi cực nhỏ (38)

Không thể chia nhỏ nữa,

Khép kín và đồng dạng

Không thể xuyên nhập nhau.

Vì không xuyên nhập nhau

Nên không thể hoà hợp

Nếu không có hòa hợp

Thì không có cảm nhận.

96. Nếu vị nào thấy có

Hai vật hết chia được

Mà xuyên nhập với nhau

Làm ơn chỉ cho xem!

97. Nhận thức vốn vô hình

Không thể nào kết nối

Với đối tượng vật chất.

Càng không thể nối kết

Với tất cả giác quan

Như phân tích bên trên (39)

Vậy những gì thành tựu

Thông qua sự tập hợp

Đều không thể có thật.

Cũng không có sự vật

Của tổ hợp vi trần

Vì chúng không thực có. (40)

98. Xúc chạm không có thật

Thì cảm giác tìm đâu?

Cảm giác không thật có

Thì tội gì hành thân

Để tìm cầu khoái lạc?

Vậy ai chịu đau khổ?

Cái gì gây khổ đau?

99. Không có người cảm nhận

Cảm giác cũng không nốt

Đứng trước cảnh ngộ này

Ôi hỡi lòng tham ái

Sao không tan biến đi?

100. Ta thấy và cảm được

Vì tất cả đối tượng

Và tâm giao tiếp nhau

[Trong tổng hợp nhân duyên]

Mà biến thành cảm giác

Chúng đều không thật có

Như ảo ảnh cơn mơ.

101. Cảm giác trong quá khứ

[Mà ta hồi tưởng lại]

Và cảm giác tương lai

[Mà ta đang mong cầu]

Đều là sự nhớ tưởng

Chúng không phải cảm giác

Có được nhờ trải nghiệm

Hơn nữa chính cảm giác

Không thể tự trải nghiệm

Cũng như mọi đối tượng

Cũng không thể nào có

Kinh nghiệm của cảm giác.

102. Thế nên không có người

Trải nghiệm những cảm giác

Và không cảm giác nào

Có thể xem thật có.

Vậy cái nhóm năm Uẩn

Không thể là "Cái Ta".

Vậy sao có cảm giác

Khoái lạc hay đau khổ?

Về tâm

103. Tâm không nằm trong mắt

Không nằm trong đối tượng

Hay giữa hai thứ ấy

Tâm không thể tìm thấy

Trong thân hay ngoài thân

Hay bất cứ nơi nào.

104. Tâm không phải là thân

Cũng không phải khác thân

Nó cũng không giống thân

Hoặc khác biệt với thân

Tâm không là gì hết,

Hoàn toàn không thực có.

Vậy tất cả chúng sinh

Trong bản chất của chúng

Vốn đã là Niết Bàn.

105. Nếu nhận thức đã có

Trước đối tượng của nó

Vậy nó dựa vào đâu

Để có thể phát sinh?

Nếu nhận thức phát sinh

Cùng lúc với đối tượng

Như vậy thì cả hai

Dựa vào đâu để sinh?

106. Nếu sinh sau đối tượng

Nhận thức dựa vào đâu

Để có thể khởi sinh?

[Vì đối tượng không còn].

Về pháp (đối tượng)

107. Qua sự phân tích trên

Thì tất cả sự vật

Không có khởi sinh thật.

(Hỏi) Nếu sự vật không sinh

Thì chân lý thế gian

Cũng không thể có được.

Song tại sao lại có

Cả hai loại chân lý

[Là chân lý thế gian

Và chân lý tuyệt đối

Theo truyền thống Trung Quán?]

Vậy chân lý thế gian

Có phải được sinh từ

Chân lý thế gian khác?

[Tức là được nhận thức

Đã có sẵn tạo ra?]

Vậy làm sao chúng sinh

Có thể đạt Niết Bàn?.

108. (Đáp) Sự nhận xét như vậy

Phát xuất từ suy nghĩ

Của người chưa giác ngộ.

Một chân lý thế gian

Không thể độc lập có.

Một sự vật nào đó

Nếu nó là hệ quả

Của một chuỗi nhân duyên

Thì chân lý thế gian

Có mặt ngay tức khắc.

Không có nhân quả ấy

Thì chân lý thế gian

Cũng không thể hiện hữu.

109. (Phản bác)

Bởi vì tâm nhận xét

Và vật bị nhận xét

Đều lệ thuộc lẫn nhau.

(TQ) Quả thực đúng như vậy

Đó là nhận xét chung

Thế gian ai cũng biết

110. Nếu dùng một nhận xét

Để tiếp tục nhận xét

Cái đã được nhận xét

Thì quá trình nhận xét

Không bao giờ chấm dứt.

111. Nếu đối tượng nhận xét

Không còn cơ sở nào

Cho nhận xét tiếp theo

[Vì nó thật trống rỗng]

Thì cái tâm nhận xét

Không còn nương vào đâu

Để có thể tồn tại

[Vì hết sạch đối tượng]

Tâm cũng không sinh nữa

Đây chính là Niết Bàn.

112. Nếu ai chủ trương rằng (41)

Vật và tâm có thật

Sẽ gặp tình trạng rối:

Nếu đối tượng thật có

Nhờ nương vào nhận thức

Vậy thì bằng cách nào

Để nhận thức có thật?

113. Hoặc nhận thức có thật

Nhờ nương cái nó biết

Vậy thì bằng cách nào

Cái được biết có thật?

Và nếu như cả hai

Nương nhau để mà có

Thì chúng không thật có.

114. (Phản bác)

Ví như người không con

Không được gọi là cha

Và con từ đâu sinh

Nếu không có người cha?

Cũng vậy, tâm và vật

Không hiện hữu độc lập.

115. (DT) Mầm phát sinh từ hạt.

Nhờ mầm mà thấy hạt

Tại sao không chấp nhận

Nhận thức là có thực

Vì nó được phát sinh

Từ sự vật được biết.

116. (TQ) Có thể chấp nhận rằng

Sự hiện hữu của hạt

Được biết nhờ thấy mầm.

Nhưng mà nhờ cái gì

Để có thể biết rằng

Nhận thức là thực có

Thông qua sự hay biết

Từ cái bị nhận thức?

Chứng minh bằng biện luận Với 4 vị thế

Sự vật không thể tự sinh nếu không có nguyên nhân

117. (TQ)

Thuyết Vô nhân chủ trương (42)

Tất cả mọi sự vật

Tự sinh không cần nhân.

Qua tri giác ta biết

Thế giới được hình thành

Từ nhiều nhân khác nhau

Như sen từ hoa, cọng ...

118. (Hỏi) Cái gì đã tạo ra

Sự khác biệt của nhân?

(TQ) Đó là sự khác biệt

Của các nhân trước nữa.

(Hỏi) Tại sao nhân sinh quả?

(TQ) Qua năng lực nhân trước.

Sự vật không được sinh ra từ một nguyên nhân vĩnh cửu - không từ Trời - phản bác phái Thường Luận

119. (Thường Luận) (43)

[Tất cả mọi sự vật

Đều do Trời sinh ra].

(TQ) Nếu Trời là nguyên nhân

Sáng tạo ra sự vật

Vậy vị ấy là ai?

120. (Thường Luận)

Chính là năm Đại chủng (44)

(TQ) Vậy đâu cần chứng minh

Sự hiện hữu của Trời

Và đâu cần mệt nhọc

Để tìm cách đặt tên

Năm Đại chủng là Trời!

121. Hơn nữa năm Đại chủng

Vô thường và bất động,

Không cần được quan tâm,

Không linh thiêng, không sạch

Trời đâu phải như thế?

122. Hư không cũng bất động

Nên không phải là Trời

Cũng không phải Tự ngã.

Nếu như bảo rằng Trời

Không thể nghĩ bàn được

Vậy nói đến làm chi

[Sự sáng tạo của Trời]?

- Không từ Trời hay từ những nguyên nhân phụ

(Hỏi) 123. Trời sáng tạo những gì?

(Đáp) Ngài tạo ra Tự ngã

[Tức "Cái Ta" vĩnh hằng],

Tạo quả đất, Đại chủng

(TQ) Sáng tạo Tự ngã ư?

- Theo như các anh nói

Đại chủng là vĩnh hằng

Vậy đâu cần tạo ra!

Sáng tạo Đại chủng ư?

- Chúng đều vĩnh cửu mà!

Sáng tạo nhận thức ư?

- Nhận thức được phát sinh

Thông qua các đối tượng!

Sáng tạo vui, khổ ư?

- Chúng đều là kết quả

Của nghiệp lành, nghiệp dữ!

Vậy Trời tạo gì nữa?

124. Nếu tất cả nguyên nhân

Không có sự bắt đầu

Thì làm sao kết quả

Có sự bắt đầu được?

125. Nếu sinh nhờ duyên hợp

Thì duyên là nguyên nhân

Chứ không phải là Trời.

Nhân duyên phối hợp đủ

Thì sự vật sinh ra.

Không có phối hợp ấy

Sự vật sẽ không thành

Dù có Trời hay không.

126. Nếu sự vật sinh ra

Không do ý của Trời

Thì Trời đâu có quyền!

Nếu do ý của Trời

Thì Trời lệ thuộc ý!

Vậy không có vị Trời

Độc lập và sáng tạo.

- Không từ vi trần (nguyên tử)

127. Những ai chủ trương rằng

Vi trần là nguyên nhân

Mãi mãi tạo muôn vật.

Vi trần không thực có

Nên đã bị bác bỏ (39)

- Không  từ vật chất tối sơ vĩnh cửu - Phản bác phái Số Luận

128. Số luận chủ trương rằng

Chủ thể của vạn vật

Chính là sự quân bình

Của ba đức nguyên thỉ.

Đó là lòng từ bi,

Say mê và bóng tối

Khi chúng mất cân bằng

Thì thế giới được sinh (33)

129. Một vật nếu thực có

Thì không thể cùng lúc

Có cả ba bản tính.

Ba đức không thực có

Bằng không thì mỗi đức

Phải gồm đủ cả ba.

130. Ba đức đã không thực

Thì cái gì được tạo

[Như âm thanh, hình sắc]

Sẽ không được nghe thấy.

Hơn nữa vật vô tri

Như quần áo chẳng hạn

Không thể có vui, khổ.

131.(Số Luận)

Phải các anh nói rằng

Bản chất vật vô tri

[Ví dụ như quần áo]

Là nguyên nhân vui, khổ?

(Đáp)

Chúng tôi đã dẫn chứng

Là chúng không có thực.

Nên đã chỉ trích rồi.

Hơn nữa theo các anh

Khoái lạc là nguyên nhân

Của áo quần vô tri

Chứ đâu phải áo quần

Là nguyên nhân khoái lạc?

132. Thực ra thì khoái lạc

Cũng sinh từ áo quần

Vì nếu không có chúng

Cũng chẳng có khoái lạc.

Vả lại nào ai thấy

Khoái lạc là trường tồn.

133. Nếu khoái lạc trường tồn

Sao không cảm nhận mãi?

Nếu bảo nó lúc ấy

Ở trạng thái cực yếu

Vậy vì lý do nào

Có lúc mạnh lúc yếu?

134. Nếu trạng thái khoái lạc

Chuyển mạnh sang thành yếu

Vậy hai trạng thái ấy

Đương nhiên là vô thường.

Sao không thừa nhận đi

Vạn vật là vô thường?

135. (Số Luận)

Mặc dù các trạng thái

Yếu mạnh đều vô thường

Song bản chất khoái lạc

Vốn thật là vĩnh hằng.

(TQ) Dù ở trạng thái nào

Chúng vẫn là khoái lạc

Trạng thái đã vô thường

Nên khoái lạc vô thường.

136. Theo như các anh nói

Từ cái toàn rỗng không

Chẳng thể sinh gì cả

Thế mà lại chấp nhận

Các trạng thái mạnh yếu

Tiềm ẩn trong khoái lạc

Nếu quả có trong nhân

Thì hoá ra ăn cơm

Có khác gì ăn phân.

137. Và các anh nên mua

Hạt bông vải mà mặc

Thay vì mua vải vóc.

(Số luận) Vì thế gian si mê

Nên không thể nhận thấy

Y phục trong bông vải

[Tức quả nằm trong nhân].

(TQ) Và ngay cả những kẻ

Nhận mình thấy chân lý

Cũng có thái độ ấy.

138. Ngay cả người thế gian

Cũng có nhận thức này

Qua nhận thức như vậy

Nên thấy quả trong nhân

Nếu cái thấy họ sai

Thì những gì thấy biết

Đều là không thực có.

139. (Số Luận)

Vậy theo thuyết Trung Quán

Thì tất cả nhận thức

Dắt dẫn đến trí tuệ

Đều vô giá trị sao?

Như vậy thì Tánh Không

Của tất cả sự vật

Đương nhiên cũng là sai.

140. (TQ)

Nếu như không hiểu được

Một sự vật là sai

Thì không thể suy ra

Cái sai ở chỗ nào.

Vì vậy khi biết được

Cái sai nằm ở đâu

Thì cái sai rành rành.

141. Ví như người nằm mộng

Thấy đứa con mình chết

[Mà y vốn không con]

Thì ý nghĩ con chết

Ngăn chận được ý nghĩ

Rằng con mình còn sống

Dù là điều ấy sai.

142. [Tóm lại] phân tích trên

Đã trình bày rõ rằng

Mọi sự vật hiện hữu

Đều phải có nhân duyên

Và bên trong mỗi duyên

Hay tập hợp của duyên

Đều hoàn toàn trống rỗng.

[Những gì] ngoài nhân duyên

Không đến từ đâu cả

Không ở cũng không đi.

Biện luận về sự phát sinh qua “duyên”

143. Vật sinh từ ảo tưởng

hoặc sinh từ nhân duyên

[Lúc sinh] từ đâu đến?

[Lúc diệt] đi về đâu?

Đó là điều phải xét.

144. Đủ duyên chúng xuất hiện

Hết duyên chúng rã tan

Thực tại là giả tạo

Như bóng hiện trong gương.

Vậy thứ gì chân thật?

Bác thuyết Hữu Nhân và Vô Nhân - Biện luận về sự phát sinh của Hữu và Vô

145. Một vật nếu thực có

Thì cần gì đến nhân

Nếu nó không thực có

Cần nhân để làm gì?

146. Dù với muôn triệu nhân

Cũng không thể biến đổi

Cái không thành cái có.

147. Nếu một vật hiện hữu

Đang ở trạng thái không (Vô)

Vậy lúc nào thành có (Hữu)?

Cái không chẳng thể mất

Nếu cái có không sinh.

148. Cái có không xuất hiện

Vì cái không chẳng mất.

Mọi chúng sinh cũng vậy

Không thể có hai tính

Vừa có lại vừa không.

149. Bởi vậy diệt hay sinh

Không hề có thực chất

Cũng vậy, toàn thế giới

Rốt ráo không sinh diệt.

150. Với sự quán sát kỹ

Thì bao nhiêu số phận

Chỉ là những ảo ảnh

Chẳng khác bóng chiêm bao

Tương tự như cây chuối

Không hề có cốt lõi.

Bởi vậy trong Tánh Không

Không có sự khác biệt

Giữa những kẻ đã vào

Hay chưa vào Niết Bàn.

TỔNG KẾT VÀ LỜI KHUYÊN CUỐI CÙNG

151. Vậy thì trong Tánh Không

Sự vật không thực có

Có gì để được mất?

Ai được khen, bị chê?

Người nào kính lễ ta?

Kẻ nào khinh miệt ta?

152. Ai vui và ai khổ?

Ai kẻ trọng, người khinh?

Khi phân tích thực tính

Còn ai là kẻ tham

Và còn gì để tham?

153. Quán sát kỹ nhân gian

Thì ai là hữu tình?

Ai chết và ai sinh?

Ai là người đã sống?

Ai là mẹ, là cha

Và ai là bè bạn?

154. [Hỡi người tìm sự thật]

Hãy cùng tôi nhận chân

Sự vật như hư không

Tất cả đều trống rỗng.

Vì mưu cầu hạnh phúc

Nên lâm cảnh tranh giành

Chuốc buồn vui tán loạn.

155. Do khoái lạc đòi hỏi

Nên tạo ra nghiệp ác

Phải trải qua tháng ngày

Đầy lo âu, thất vọng

Hành hạ, giết hại nhau!

157. Đôi khi sinh cõi lành (45)

Hưởng thụ nhiều lạc thú

Rồi đến khi nhắm mất

Nhận số phận hẩm hiu

Tràn đầy bao thống khổ.

157-158. Hố thẳm của đoạ đày

Nhan nhản trong cuộc sống

Rơi vào khó thoát ra.

Nhưng đang trong luân hồi

Làm sao tránh khỏi nó?

159. Hơn nữa sự mê chấp

Về sự vật thực có

Lại luôn luôn trái ngược

Với sự hiểu Tánh Không.

Nếu trong cuộc đời này

Ta không thể thấu đạt

Về chân lý tuyệt đối

Thì ta phải tiếp tục

Chìm đắm biển luân hồi.

161. Cuộc sinh tồn đời này

Dẫy đầy bao khủng khiếp

Như biển khổ mênh mông.

Sức lực lại quá yếu,

Mạng sống ngắn, mong manh.

Con người sống vội vã

Lo chăm sóc thân thể

Mệt nhọc vì mưu sinh

Chịu đói khát, suy yếu

Quan tâm đến ngủ, ăn

Hứng lấy bao bất hạnh

Giao du với kẻ ngu.

Vô nghĩa ngày tháng trôi

Rất khó tìm giờ giấc

Để suy nghĩ thực tại

Vậy tìm đâu phương pháp

Ngăn chận tâm tán loạn?

162. Đây Ma vương rình rập

Xô ta vào bất hạnh

Kia nẻo tà dọc ngang

Thật khó hòng thắng vượt.

163. Không dễ sinh cõi phước (45)

Gặp Phật càng hiếm hoi

Sóng thần của phiền não

Làm sao cản ngăn đây?

Ôi triền miên đau khổ!

164.-165. Đáng thương thay chúng sinh

Lăn lộn trong sóng khổ

Mà không hề biết hay

Như người tu khổ hạnh

Nhúng người vào nước lạnh

Hoặc lao vào lửa nóng

Dù vô cùng khổ đau

Song nghĩ là an vui!

166. Có kẻ nghĩ rằng mình

Không bao giờ già chết

Song họ sẽ chóng gặp

Những bất hạnh khôn lường

Và Thần Chết lấy mạng.

166. Chừng nào tôi dập tắt

Lửa khổ đốt chúng sinh

Bằng trận mưa công đức

Trút xuống từ tầng mây

Phước lành tôi tích lũy?

167. Chừng nào tôi có thể

Trình bày về Tánh Không

Về tích lũy công đức

Cho tất cả chúng sinh

Bám quan niệm sai lầm

Là vạn vật thực có.

CHƯƠNG X : HỒI HƯỚNG

1. Công đức do viết luận

„Nhập Bồ Tát Hạnh“ này

Xin hồi hướng chúng sinh.

Mong tất cả bước vào

Đường đi của Bồ Tát.

2. Nguyện nhờ công đức này

Mà tất cả chúng sinh

Đang chịu bao đau bệnh

Hành hạ thân và tâm

Được an vui vô tận.

3. Nguyện họ luôn hạnh phúc

Suốt sinh tử luân hồi.

Nguyện họ luôn an lạc

Như chư vị Bồ Tát.

4. Nguyện chúng sinh khắp nơi

Đang ở trong địa ngục

Được niềm vui cực lạc

Cõi Sukhavati.

5. Nguyện kẻ bị run rét

Trong địa ngục giá băng

Đều được hơi sưởi ấm.

Nguyện chúng sinh nóng nực

Trong địa ngục đốt nung

Được  mây lành Bồ Tát

Giáng mưa làm dịu mát

6. Nguyện rừng lá gươm đao

Thành vườn hoa tráng lệ.

Nguyện cây cành giáo mác

Biến thành cây như ý

[Làm thoả mãn ước mơ].

7. Nguyện địa ngục thành vườn

Với hồ sen tỏa hương

Với  thiên nga, nhạn, hạc

Hát ca vui rộn ràng.

8. Nguyện địa ngục đốt nung

Biến thành kho châu ngọc.

Nguyện cho nền sắt nóng

Thành thủy tinh lung linh.

Nguyện địa ngục xay nghiền

Thành điện đền thờ Phật.

9. Nguyện mưa đá núi lửa

Biến thành trận mưa hoa.

Nguyện chiến trường gươm giáo

Thành lễ hội tung hoa.

10. Nguyện chúng sinh chìm nổi

Trong dòng sông địa ngục

Nước nóng bỏng sục sôi

Nấu tiêu tan thịt da

Xương lòi ra trắng hếu

Nhờ công đức của tôi

Được sinh lên cõi trời

Sông Madukini.

11. Nguyện ngục tốt Diêm Vương

Và kên kên, chim quạ

Hình dáng thật dữ dằn

Trong bóng đen thâm u

Bỗng nhiên tan biến hết.

Chúng ngẩng lên hỏi nhau

“Ánh sáng kỳ diệu này

Từ đâu chiếu rọi đến?”

Và tất cả bỗng thấy

Bồ Tát Kim Cương Thủ

Uy nghiêm đứng trên không.

Nhờ năng lực hoan hỷ

Rửa sạch hết lỗi lầm.

Chúng cùng bay theo Ngài.

12. Nguyện tội nhân địa ngục

Gặp được mưa hoa sen

Chan hoà với nước thơm

Rơi xuống rưới tắt lửa

Liền hân hoan, khoan khoái.

Các tội nhân tự hỏi

“Ai đã làm thế này?”.

Chúng ngẩng nhìn hư không

Thấy Bồ Tát Quan Âm

Tay cầm hoa sen vẫy.

Chúng vô cùng cảm phục

Nhận hạnh phúc bất ngờ.

13. Nguyện hữu tình địa ngục

Vui thấy Đức Văn Thù.

Chúng lớn tiếng gọi nhau:

“Bạn ơi! Mau lại đây

Chiêm ngưỡng Đức Văn Thù

Ngài đến cứu chúng ta !

Ngài Văn Thù  Đồng Tử

Trong hào quang tỏa rạng

Đã phát tâm Bồ  Đề

Có năng lực diệt khổ

Và đưa đến an vui.

Ngài với tâm từ bi

Triệt để cứu muôn loài“.

14. "Bạn ơi! Hãy nhìn kia

Dưới gót sen của Ngài

Vương miện trăm vị Trời

Đang cúi xuống đảnh lễ

Tiếng Thiên nữ ca ngợi

Mê ly khắp điện đền

Mưa hoa rắc đầu Ngài

Mắt Ngài óng từ bi”.

Bao tội nhân địa ngục

Đều đứng dậy reo hò.

15. Nguyện chúng sinh địa ngục

Nhờ công đức của tôi

Thấy Phổ Hiền Bồ Tát

Hoá hiện vầng mây lành

Trút mưa thơm dịu mát

Khiến chúng đều hân hoan.

16. Nguyện tất cả chúng sinh

Lià sợ hãi, đau đớn

Như tại châu Kuru.

17. Nguyện loài vật hết sợ

Cảnh ăn thịt lẫn  nhau.

Nguyện cho loài ngạ quỷ

An vui như những người

Ở Bắc Câu Lưu Châu.

18. Nguyện Đức Quán Thế Âm

Rưới mãi nước cam lồ

Khiến ngạ quỷ ấm no

Được tắm dòng sữa mát.

19. Nguyện kẻ mù được thấy.

Nguyện người điếc được nghe.

Nguyện các bà mang thai

Sinh nở không đau đớn

Như Hoàng Hậu Ma-gia.

20. Nguyện người trần thân trụi

Có đầy đủ áo cơm

Có vòng hoa hương liệu

Được những gì cần thiết

Giúp cuộc sống ổn yên.

21. Nguyện người đau thoát bệnh

Tù nhân được tự do

Kẻ yếu được mạnh mẽ

Mọi người thương mến nhau.

22. Nguyện người sợ hết sợ.

Người trói được tháo dây

Người yếu được mạnh mẽ.

Nguyện người người nhớ nghĩ

Làm việc lợi cho nhau.

23. Nguyện cho khách lữ hành

Đến đâu cũng an lành

Nguyện những người buôn bán

Thu lợi nhuận dễ dàng.

24. Nguyện những kẻ đi thuyền

Đạt được nhiều mục tiêu

Thuyền bình an cập bến

Đoàn tụ với gia đình.

25. Nguyện hành khách lạc đường

May gặp đoàn đi buôn

Thoát lo sợ bị cướp

Và thú dữ cọp beo

Hành trình được xuôi thuận.

26. Nguyện chư Thiên, Thiên Thần

Hộ trì kẻ bệnh hoạn

Kẻ say sưa, cùng đường

Người già yếu, trẻ con

Kẻ ngu si, lẫn trí.

27. Nguyện chúng sinh thoát khỏi

Tám hoàn cảnh hiện hữu

Không thuận cho việc tu (46) .

Nguyện họ đủ đức tin

Đủ từ bi, trí tuệ.

Hoàn hảo trong hình tướng

Thuần thục cách hành xử

Nhớ lại được đời trước.

28. Nguyện chúng sinh có được

Những  kho tàng vô tận

Là hư không, tự do.

Nguyện họ sống hoà hợp

Không tuyệt vọng, lệ thuộc.

29. Nguyện chúng sinh yếu đuối

Được trở thành mạnh mẽ.

Nguyện khất sĩ tiều tụy

Được đẹp tươi vô cùng.

30. Nguyện tất cả thiếu nữ

Được trở thành nam nhi.

Nguyện kẻ địa vị thấp

Đạt được địa vị cao

Không thành kẻ kiêu mạn.

31. Nguyện tất cả chúng sinh

Nhờ phước đức của tôi

Mà dứt sạch điều ác

Luôn thích làm điều lành.

32. Nguyện tất cả chúng sinh

Không lìa tâm Bồ Tát

Hiến thân cho giải thoát

Thường được Phật gia hộ

Không vướng bẫy ma vương.

33. Nguyện tất cả hữu tình

Được sống lâu vô lường

Luôn luôn được hạnh phúc

Không hề nghe chữ “chết”.

34. Nguyện mười phương thế giới

Đầy rừng cây như ý

Vang diệu âm thuyết pháp

Của chư Phật, Bồ Tát.

35. Nguyện toàn cõi địa cầu

Không gồ ghề sỏi đá

Bằng phẳng như lòng tay

Dịu êm đầy ngọc báu.

36. Nguyện pháp hội Bồ Tát

Mở ra  khắp nơi nơi.

Nguyện hào quang các ngài

Điểm trang cho mặt đất.

37. Nguyện tất cả chúng sinh

Nghe pháp âm vi diệu

Vang bất tận từ rừng

Từ chim muông, ánh sáng

Từ trời rộng mênh mông.

38. Nguyện tất cả chúng sinh

Luôn luôn được kề cận

Chư Phật và Bồ Tát

Với lễ vật cúng dường

Nhiều như mây khắp trời

Dâng lên đấng đạo sư.

39. Nguyện chúng sinh được mưa

Rơi xuống đúng thời vụ

Mùa màng được sung túc.

Nguyện thế giới giàu sang

Vua quan đều chính trực.

40. Nguyện thuốc thang công hiệu

Nguyện thần chú ứng linh

Nguyện quỷ ma, phù thủy

Đều phát tâm từ bi.

41. Nguyện tất cả chúng sinh

Không gặp điều bất hạnh

Bị tội lỗi, đau bệnh

Bị đàn áp khinh khi

Không mang tâm độc ác.

42. Nguyện tu viện, chùa chiền

Tu học được hưng thịnh

Tăng chúng  sống vững bền

Mọi việc đều thành tựu.

43. Nguyện tăng sĩ siêng tu

Đạt trí tuệ càng nhiều

Thích yêu giữ giới luật

Diệt trừ sạch tán loạn

Tâm trí được khinh an.

44. Nguyện cho các ni cô

Không tranh chấp lẫn nhau

Thu lợi từ giáo pháp.

Nguyện những vị khất sĩ

Luôn đầy đủ giới hạnh.

45. Nguyện người bị phạm giới

Biết sám hối ăn năn.

Nguyện họ sinh cõi lành

Không phạm giới trở lại.

46. Nguyện những vị xuất gia

Học rộng và uyên thâm

Được tặng phẩm, bố thí

Được tâm ý trong sạch

Tiếng tốt vang mười phương.

47. Nguyện chúng sinh không khổ

Và không gặp gian nan

Vì số kiếp tồi tàn

Với thân người duy nhất

Trở thành bậc Chánh giác.

48. Nguyện tất cả chúng sinh

Luôn cúng dường chư Phật

Được hạnh phúc khôn lường

Nhờ phước Phật vô biên.

49. Nguyện Bồ Tát thành tựu

Ước nguyện cứu thế gian.

Nguyện tất cả chúng sinh

Được chư Phật, Bồ Tát

Xót thương và cứu độ.

50. Nguyện cho hàng Độc Giác,

Và Thanh Văn an lạc

Luôn luôn được Trời, người,

A Tu La cúng dường.

51. [Cuối cùng] Nguyện cho tôi

Nhận được sự gia hộ

của Văn Thù Bồ Tát

Để nhớ lại đời trước.

Nguyện đời nào cũng tu

Để chứng Cực Hỷ Địa (47)

52. Nguyện suốt dòng thời gian

Đều duy trì định lực.

Nguyện đời đời kiếp kiếp

Có được chốn tịnh thanh

Để thuận lợi tu hành.

53. Nguyện khi muốn tìm hiểu

Hay hỏi han Phật Pháp

Đều không gặp chướng ngại

Thấy Văn Thù Bồ Tát

Và được ngài hộ trì.

54. Nguyện như Đức Văn Thù

Đi khắp mọi chân trời

Để hoàn thành lợi ích

Cho tất cả chúng sinh.

Mong số kiếp của tôi

Cũng được như của ngài.

55. Ngày nào hư không còn

Ngày nào quả đất còn

Ngày đó tôi tiếp tục

Diệt khổ của trần gian.

56. Nguyện đau khổ chúng sinh

Chín muồi nơi thân tôi.

Nguyện phước đức Bồ Tát

Mãi mãi đem hạnh phúc

Đến tất cả chúng sinh.

57. Nguyện giáo pháp Như Lai

- Là linh dược duy nhất –

Trừ đau khổ thế gian

Được trường tồn, ca ngợi

Được xuyển dương, hộ trì.

58. Nay tôi xin kính lễ

Đức Văn Thù Sư Lợi

Nhờ ân đức của ngài

Mà tâm tôi hướng thiện.

Kính lễ thiện tri thức

Nhờ ân đức các vị

Mà tâm tôi lớn lên.

------------------------

CHÚ THÍCH : 

(01)  Phật: Trong Luận „ Nhập Hạnh Bồ Tát“, ngài Santideva đã dùng nhiều danh hiệu khác nhau để thay cho danh hiệu „Phật“, ví dụ như: đức Thế Tôn, bậc Chiến Thắng, đức Như Lai, bậc Đạo Sư, Hiền Giả v..v..

(02)  Những vị Thừa Kế đức Phật bao gồm những vị thừa kế lời Phật dạy như hàng Thanh Văn, Độc Giác Phật và những vị thừa kế tâm của Phật như hàng Bồ tát.

(03)  Các nơi Bồ tát ở: Là những nơi chốn và địa điểm sống và tu tập của Bồ tát Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm (Siddhàrtha Gautama) trước khi giác ngộ thành vị Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni.

(04)  Tam Bảo: gồm có Phật, Pháp và Tăng

(05)  Phạm Thiên: Là một hình thái hiện hữu của thế giới các vị Trời tối thượng

(06)  Ba ruộng phước (Phước điền): Là những vị mà Phật tử nên cúng dường để được phước đức lớn cho đời này và đời sau. Thứ nhất là cúng dường Phật, Pháp Tăng (Kỉnh điền). Thứ hai là cúng dường cha mẹ (Ân điền). Thứ ba là cúng dường những kẻ nghèo khó (Bi điền)

(07)  Pháp cạn, sâu: Chỉ cho Tiểu Thừa và Đại Thừa

(08)   Chú thuật Mật giáo: Dó là những câu tụng niệm có âm thanh chứa đựng một sức mạnh huyền bí của vũ trụ hay của Phật tính với công năng ủng hộ kẻ tu niệm

(09)  Kinh Ba Phần: Là kinh gồm có ba phần: sám hối, phát nguyện và hồi hướng

(10)  Truyện Cát Trường Sinh: Trong Kinh Hoa Nghiêm

(11)  Nữ thần Durga: Là Nữ thần của Đạo Karnapa, Nam Ấn Độ

(12)  Đổi vị trí cho nhau: Là một trong những phương tiện giúp đỡ tu tập, được miêu tả rõ trong Chương 8, từ câu 90-100 và từ câu 101-139

(13)  Hoá sinh trong lòng sen: Đây là cảnh hóa sinh tại cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà

(14)  Chiến công trọn thành: Tức là đạt được sự giác ngộ, thành Phật và truyền dạy giáo lý (Chuyển Pháp Luân)

(15) Xem chương VII, câu 16

(16)  Xem chương IX, câu 73

(17)  Bồ tát Diệu Hoa Nguyệt (Supuspacandra): Mặc dầu biết vua Curadatta rất ác độc, song vẫn cương quyết thuyết pháp vì lợi ích cho chúng sinh và đã bị vua hành hạ.

(18)  Tinh huyết của cha mẹ

(19)  Từ câu 141 đến câu 154 (trong ngoặt kép): Nơi đây ngài Santideva đã tự đặt mình vào địa vị của một người khác rồi hướng về „cái Ta“ (ngã) mà nói

(20)  Chân lý thế gian: Còn gọi là tục đế, chân lý tương đối, chân lý bao phủ

(21)  Chân lý tuyệt đối: Còn gọi là chân đế, thắng nghĩa đế

(22)  Đây là cuộc tranh luận giữa Tôn giả Santideva (Trung Quán) và phái Duy Thức. Duy thức chủ trương rằng mỗi sự vật và hiện tượng bên ngoài đều là ảo tưởng. Chúng không có thật mà chỉ là bóng dáng của tâm. Chỉ có tâm mới hiện hữu thật sự

(23)  Phụ nữ vô sinh: Là phụ nữ không thể nào sinh con được. Vì vậy sự bàn luận về sắc đẹp của đứa con gái của một phụ nữ vô sinh chỉ là chuyện vui đùa

(24)  Đây là ví dụ về một con gấu bị chuột cắn làm độc. Gấu ngủ suốt mùa đông. Đến mùa xuân, khi nghe tiếng sấm nó tỉnh dậy và cảm thấy đau đớn mới nhớ lại đã bị chuột cắn. Ký ức của con người cũng tương tự như vậy

(25)  Tâm siêu nhiên = Tha tâm thông

(26)  Nơi đây Tôn giả Santideva phản bác lại phái Tiểu thừa đã quan niệm rằng sau khi đức Phật nhập Niết Bàn thì Ngài không còn làm lợi ích cho chúng sanh được nữa.

(27)  Bám víu đối tượng hay sự vật = chấp pháp. Bám víu cái Ta = Chấp ngã

(28)  Theo Prajanàkarumati thì các câu 50, 51 và 52 là những câu đã được tác giả khác từ ngoài đưa vào

(29)  Chướng ngại hiểu biết = Sở tri chướng

(30)  Số luận (Samkhya) là một học thuyết phi Phật giáo do Rishi Kapila thành lập vào thời cổ Ấn Độ, tin rằng mọi hiện tượng - trừ cái ngã trường cửu bất biến - được tạo thành từ một thần ngã Prakrti hay là thực chất tối sơ thấm khắp mọi sự. Khi tiếp xúc với thực chất này thì một loạt những biểu hiện như tri thức, cảm quan và đối tượng cảm giác phát xuất từ đấy và được cái ngã cảm thọ. Thực chất tối sơ là một chất liệu trường cửu, phổ biến tạo nên mọi sự và là bản chất của các pháp trong thế giới kinh nghiệm. Ngã là nguyên lý tâm bất biến trở nên liên kết với ngoại giới do sự đồng nhất sai lầm của nó với biểu hiện của thực chất tối sơ. (Theo: Thích Nữ Trí Hải: Nhập Bồ Tát Hạnh, Trang nhà Quảng Đức,  Chương 9: Trí Tuệ, câu 60). Xem thêm Tìm hiểu sáu phái Triết học Ấn Độ, Thích Mãn Giác, 2002, Trang nhà Quảng Đức.

(31)  Âm thanh: Là đối tượng của sự nghe = Trần cảnh

(32)  Cái biết, Tánh biết= nhận thức

(33)  Ba đức (nguyên lý) tối sơ của Số luận là: rajah, sattwa và tamah. Tùy theo dịch gỉa mà có nhiều cách dịch khác nhau. Cách dịch ở đây dựa theo E. Steinkellner với ba thuật ngữ: Güte, Leidenschaft và  Finsternis (Santideva: Eintritt in das Leben zur Erleuchtung - Bodhicarỳavatàra. Eugen Diederichs Verlag, 1981, trang 125.)    

Thích Nữ Trí Hải dịch là: ưu, hỷ, ám. Sách đã dẫn, câu 64    

Thích Trí Siêu dịch là thanh tịnh, tạo tác u mê (Thích Trí Siêu: Bồ Tát Hạnh, Trang Nhà Quảng Đức, chương 9: Trí huệ, câu 64)

(34)  “Một”: Theo Trung Quán, một sự vật có thật (có tự tính) còn được gọi là “Một”. Tự nó là nó, không do nhiều điều kiện khác (nhân duyên khác) phối hợp mà thành

(35)  Năm Uẩn: Ngũ Uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức

(36)  Ảo tưởng: Được sinh ra từ tưởng tượng, từ tà kiến hoặc do chấp trước

(37)  Giác quan = Căn: tai mắt, mũi, lưỡi thân    

Đối tượng: ví dụ như sự vật = Trần: như âm thanh, màu sắc, mùi vị, va chạm

(38)  Hạt bụi cực nhỏ = vi trần hoặc cực vi trần và lân hư trần, nhỏ đến mức dường như không có gì cả

(39)  Xem lại các câu 86 – 88 của chương chín

(40)  Xem lại các câu 58 – 88 của chương chín

(41)  Phản bác phái Hữu Bộ. Phái này quan niệm rằng tâm và vật là hai thực thể khác biệt

(42)  Phái Vô Nhân: Phái này chủ trương rằng tất cả các pháp không do nhân gì sinh ra, họ bảo: “Mọi sự vật như mặt trời mọc, nước chảy xuống núi, hạt đậu tròn, gai nhọn và lông đuôi con công … không do ai làm ra cả, chúng tự nhiên sinh (Thích Nữ Trí Hải, sđd, chương 9, câu 116)

(43)  Thường Luận: Phái này tin rằng mọi sự do thần Tự Tại Thiên sinh ra. Vị này có năm đức là thiêng liêng, trong sạch, đáng kính, trường cửu, độc nhất và là sáng tạo chủ của mọi sự (Thích Nữ Trí Hải, sđd, chương 9, câu 118)

(44)  Bốn Đại chủng: gồm có đất, nước, lửa, không khí và không gian

(45)  Cõi lành, Cõi phước = Bát phước sanh xứ: Tám cõi nhờ có phước đức mà được sinh đến đó, gồm có cõi người giàu sang, cõi trời bốn vị Thiên Vương, cõi trời Đao-lỵ, cõi trời Dạ-Ma, cõi trời Đâu-Suất, cõi trời Hoá-Lạc, cõi trời Tha-Hoá và cõi trời Phạm Thiên (Theo Đoàn Trung Còn: Phật học Từ điển, Saigon 1966, tập I, trang 243)

(46)  Tám hoàn cảnh xấu (Bát nạn): Tám cảnh ngộ ngăn chận sự tu học để được giác ngộ, gồm có Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Châu Uất đan việt (Châu Bắc-cu-lư) người ở châu này sung sướng mãi nên tu học không được, cảnh trời Trường thọ (Vô tưởng thiên), nơi đây không có tâm tưởng nên không tu học được, đui, điếc, câm, Thế trí biện thông (ỷ mình thông minh biện bác theo thế sự mà không lo tu học, trước Phật và sau Phật, hai thời này không có sự bành trướng của đạo Phật nên không thể tu học (Đoàn Trung Còn, sđd, tr. 235)

(47)  Cực Hỷ Địa: Sơ Địa của Bồ Tát   

Hết