Ý nghĩa
Vía Phật - Bồ Tát trong năm
---o0o---
VU LAN THẮNG HỘI
Thích Hữu Thiện
A. DẪN NHẬP
Hằng năm, đến đầu tháng 7, âm lịch, đệ tử Phật xuất gia và tại gia cư sĩ đều náo nức tổ chức lễ hội Vu lan. Đây là điểm nổi bật tư tưởng Phật giáo thâm nhập nhân gian trở thành truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Khắp nơi trên đất nước ta, nơi nào có chùa chiền, Tịnh xá, thiền Viện, niệm Phật đường v.v... Nói chung là các cơ sở Phật giáo dù nhỏ hay lớn đều có lễ Vu lan thắng hội. Bởi lẽ, đạo Phật du nhập vào Việt Nam rất lâu, kể từ thế kỷ thứ nhất, Phật giáo được truyền bá đến Giao Châu. Kinh đô của Giao Châu đặt ở Luy Lâu, trung tâm đồng bằng sông Hồng, thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc Việt Nam. Xưa còn gọi Luy Lâu là chùa Dâu, trung tâm này được xây dựng từ đời Triệu Đà,179, trước Tây lịch. Để nhắc chùa Dâu (pháp vân Tự), đất Bắc có câu ca dao:
“Dù ai mua đâu bán đâu
Hể trông thấy Tháp chùa Dâu thì về.”
B. NỘI DUNG:
Nhân đây chúng ta tìm hiểu ý nghĩa Vu Lan thắng hội. -Vu Lan thắng hội, là hội báo hiếu tốt đẹp nhất, cũng gọi Vu Lan bồn hội. Do tích tôn giả MuÏc Kiền Liên, đại đệ tử của đức Phật thấy mẹ rơi vào đường ngạ quỉ đói khổ, chịu nỗi khổ như người bị treo ngược huyết mạch đảo lộn, về Tịnh xá bạch hỏi đức Phật tìm cách cứu độ. -Đức Phật bảo vào ngày Chư Tăng mãn mùa an cư Kiết hạ làm lễ tự tứ, tăng tuổi đạo, cũng là ngày Phật Đà hoan hỉ, người đem trăm thức ăn ngon dâng cúng, nhờ vào phước báo này và sự chú nguyện của chư Phật, Bồ tát, thánh hiền tăng sẽ cứu được cha mẹ bảy đời sanh vào nhàn cảnh.
Trung Quốc, từ năm Đại Đồng vua Lương Võ Đế, đã bắt đầu dựng lễ Vu Lan Bồn. Xưa các nước theo văn hệ Trung Quốc cũng đều noi theo làm lễ hội nầy.
Như vậy, lễ Vu Lan thắng hội có từ ngày tôn giả Mục Kiền Liên cứu mẹ và truyền xuống theo con đường hoằng pháp độ sanh của chư vị Bồ tát thánh hiền tăng, từ Tây Trúc (Ấn Độ) đến Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ, Triều Tiên v.v... Phật giáo tùy duyên thích nghi vào mỗi quốc gia hình thành lễ hội Vu Lan với các ý nghĩa như sau:
1.-Ý nghĩa Vu Lan
Theo từ điển Phật học Hán Việt, Phân viện nghiên cứu Phật học, NXB. Khoa Học Xã Hội, năm 1998, trang 1456, Vu Lan Bồn, Uilambana (hành sự), còn gọi Ôlam bà noa, dịch đảo huyền. Theo phép nước Tây Trúc, vào ngày tự tứ của Chư Tăng, đặt cổ bàn linh đình, dâng cúng Phật Tăng để cứu cái khổ treo ngược (đảo huyền) của người đã mất. Xưa nói cái bồn, chậu đựng thức ăn là không đúng!
Vu Lan Bồn kinh sớ, của Tông Mật nói: Vu Lan là từ ngữ của Tây Vực, nghĩa là đảo huyền, bồn là âm của Đông Hạ vẫn là đồ dùng cứu chửa. Nếu nói theo cách nói của địa phương thì phải nói cứu đảo huyền bồn.
Vu Lan bồn tâm ký của Nguyên Chiếu, quyển thượng, bác lại: “Theo ứng pháp sư kinh nghĩa thì tiếng Phạn Ô lam bà noa dịch là đảo huyền. Nay xét ô lam tức Vu Lan. Bà noa là cái chậu. Thế là ba chữ đều là tiếng Phạn. Nhưng âm thì có xê xích sai lầm”.
Như vậy, ngày lễ Vu Lan, là ngày người con hiếu noi gương tôn giả Mục Kiền Liên dâng tiệc cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Tăng nhờ đạo lực của quí ngài chú nguyện giải cứu khổ treo ngược cho vong nhân cha mẹ bảy đời, xuất phát từ kinh Vu Lan bồn, do Đôn Hoàng Bồ Tát Trúc Pháp Hộ (Dharmarksa) dịch năm 265 đời Vũ Đế nhà Tây Tấn, Trung Quốc. Ở Việt Nam có bản dịch sang Quốc ngữ do hòa thượng Huệ Đăng, hệ Thiên thai chuyển ngữ đang lưu hành rộng rãi?
Kinh Vu Lan, nói về sự tích tôn giả Mục Kiền Liên là người con hiếu hạnh, thế danh là La Bốc, cha ngài là phó tướng của Triều Đình cũng là trưởng giả giàu có, mẹ ngài là bà Thanh Đề thường sanh tâm hủy báng Tam bảo. Sau khi cha qua đời, hết thời kỳ thọ tang, ngài xin mẹ mở cửa kho chia gia sản thành ba phần: -Một phần để mẹ chi tiêu, một phần cúng dường Sa môn Tam bảo hồi hướng cầu siêu thân phụ, một phần để ngài đi buôn bán xứ xa kiếm lời về dâng mẹ, cũng làm những việc như trên.
Bà Thanh Đề đồng ý cho con xử lý số tài sản của chồng để lại, nhưng bà không tin nhân quả, lại làm khác đi. Sau bao năm làm ăn xứ người, La Bốc trở về nhà với tâm hiếu hạnh tôn kính mẹ. Rõ ra, khi con đi rồi bà Thanh Đề không tu tạo phúc duyên, không ăn chay niệm Phật, không cúng dường trai tăng 500 vị như bà đã viết thư báo tin cho con, lại còn sai bảo gia nhân đánh mắng Sa môn –Khất sĩ xuất hiện trước cổng nhà, mua trâu dê cắt tiết tế thần làm điều mê tín. Vài tháng sau bà Thanh Đề ngã bệnh, mụt nhọt nổi lên khắp người, máu mủ chảy ra hôi thúi, thức ăn đưa vào miệng trào ra hết, bảy ngày sau bà trút hơi thở cuối cùng. An táng mẹ xong, ngài La Bốc xét thấy mẹ mình tánh hạnh không tốt sẽ thác sanh khổ cảnh nên xuất gia tu tập hồi hướng công đức cho mẹ sinh nhàn cảnh. Đoạn đầu ngài tu theo đạo Bà la môn, về sau tu theo Phật pháp đắc đạo. Một hôm tôn giả Mục Kiền Liên đi hành hoá trên bờ sông Hằng, thấy một đoàn ngạ quỉ xuống sông uống nước. Loài quỉ này bụng to như bao chỉ xanh đầy thóc, tay chân như cây sậy, cổ họng nhỏ như cây kim, thấy thức ăn ngon ăn không được, nước miếng đổ ra đầu đứt, rồi mọc lại đầu khác ( như cây chuối con bị chặt ngang thân) đau đớn khổ sở. Cũng có quỉ đầu to như cái đấu, lưỡi dài khắp châu thân, máu trong huyết quản cứ vận ngược từ dưới lên đau khổ lắm. Tôn giả xót thương người tạo nhân quả xấu, chạnh nhớ đến mẹ già liền mở pháp nhãn nhìn xuống cõi âm thấy mẹ đang bị đoạ trong loài ngạ quỉ. Động lòng hiếu thảo, ngài vận dụng thần thông bay vào địa ngục dâng bát cơm nóng cho mẹ. Bà Thanh Đề tay tả che đậy, tay hữu bốc ăn, lửa trong miệng bà bốc cháy; có bản dịch nói cơm hoá ra than lửa !
Tôn giả Mục Kiền Liên dùng mọi cách cứu mẹ, không hiệu quả, ngài về tịnh xá thỉnh ý Phật.
Đức Phật bảo tôn giả Mục Kiền Liên, ngày chư tăng mãn hạ làm lễ tự tứ, đến cúng dường Tứ sự, nhờ chư Tăng chú nguyện mẹ ngài sẽ thoát ly khổ cảnh sinh về nhàn cảnh. Ngài Mục Kiền Liên y giáo phụng hành. Bà Thanh Đề và các vong nhân đồng cảnh khổ nhờ từ lực của Tam bảo được siêu thoát khỏi kiếp ngạ quỉ sinh Thiên nhàn lạc. Từ ấy đến nay đệ tử Phật noi gương tôn giả Mục Kiền Liên chọn ngày chư Tăng mãn hạ làm hiếu sự. Ngày mãn hạ cũng là ngày Tự Tứ.
2-Ý nghĩa Tự
Tứ Chư Tăng ni sau ba tháng an cư hòa nhập vào đời sống tập thể tiến tu Tam vô lậu học. Đối với chư tôn thiền đức lãnh đạo Hạ trường, vị tăng ni tự kiểm điểm lại mình sau thời gian tu học có sai phạm lỗi lầm gì không, nếu có nên phát khởi ý tứ xin sám hối. Hoặc tự mình không hay biết, nhờ chư tôn đức thấy, nghe, nghi có lỗi chỉ dạy cho sám hối để ba nghiệp thanh tịnh. Con không phàn nàn oán trách chi hết. Đó là thái độ Khiêm cung hướng thượng.
Tự tứ có nghĩa là cầu người khác chỉ lỗi của mình ra, để biết mà sám hối.
Sám hối là ngăn lỗi trước ngừa lỗi sau. Đã là chúng sinh ít nhiều gì người ta cũng có lỗi lầm của chính mình không hay biết. Lời tục nói , chuyện ngoài đường thì sáng, chuyện trong nhà thì quáng.
3- Ngày Tăng thọ tuế
Ngày tự tứ cũng là ngày Tăng thọ tuế. Nghĩa là ngày Tăng –Ni nhận thêm một tuổi đạo. Người đời kể từ ngày sinh tròn một năm tăng một tuổi. Người đạo Phật xuất gia mỗi năm tròn một hạ tăng một tuổi, cũng gọi ngày tết đạo. Tăng ni dự Hạ trường đức hạnh lớn thêm lên, nới rộng phúc điền cho chúng sanh gieo trồng căn lành. Nhân đấy, người con hiếu phát tâm cúng dường Tứ sự: Thức ăn, y phục, toạ cụ, thuốc men để chư tăng có phương tiện hành đạo, các ngài thọ nạp tịnh tài, tịnh vật, hồi hướng công đức chú nguyện cho người dâng cúng được như ý mong cầu: “Cha mẹ hiện tiền tăng long phước thọ, cha mẹ quá khứ trực vãng tây phương”. Vì xét thấy đời sống vô thường bấp bênh vô định, thân người khó được, Phật pháp khó tìm, nên ngày tăng thọ tuế của chư tăng như một cơ duyên tốt, người phật tử tranh thủ gieo trồng căn lành, những mong hưởng quả thiện.
4-Ngày Phật Đà hoan hỉ
Ngày Tăng thọ tuế cũng là ngày Phật mừng vui: Triết lý Phật giáo là triết lý nội quan phản chiếu phàm tâm bất định vô thường, khổ, vô ngã để đạt đến chân như tự tánh thường, lạc, ngã, tịnh. Chư vị Tăng ni vâng lời Phật dạy tạm ngưng ba tháng hành hoá, tránh dẫm đạp côn trùng mùa mưa, khép mình vào thanh qui trường hạ trau dồi giới đức, tiến tu Tam vô lậu học, tâm không còn tuôn chảy, phiền não lậu hoặc, lập hạnh khiêm cung mong cầu đại chúng chỉ lỗi để tu sửa. Đệ tử tại gia phát tâm làm hạnh hiếu, theo tinh thần uống nước nhớ nguồn, giống như cha lành thấy các con biết vâng lời dạy bảo gìn giữ gia phong nề nếp nên Phật rất vui, hoan hỉ.
5- Ngày xá tội vong nhân
Ngày Phật Đà hoan hỉ cũng là ngày xá tội vong nhân, ca dao có câu:
“Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.”
Vong nhân là người đã mất thân này, mà thần thức (linh hồn) còn chất chứa tội nghiệp sâu nặng nên chưa thể sanh qua cảnh giới khác hạnh phúc. Cũng gọi vong linh, vong hồn hay thần thức. Suy xét về sự còn mất khó hiểu này Vũ Đình Liên chua xót hỏi:
“Hỡi người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ !”
Hỏi không cần giải đáp. Đúng là một tiếng than dài não ruột. Phật giáo căn cứ vào sự hành nghiệp của mỗi người sống mà biết người chết ấy sanh vào đâu, vui hay khổ. Nguyễn Du trong bài: “Văn Tế Thập loại chúng sinh” đã than:
“Hương lửa đã không nơi nương tựa
Hồn mồ côi lần lửa mấy niên
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói kẻ hiền người ngu.”
Ở Trung Hoa, có truyền thuyết nói về cúng cô hồn, tế độ vong nhân như sau: -Vua Đường Thái Tông là một người gầy dựng sự nghiệp Đế Vương bằng thanh gươm yên ngựa, tâm lý ám ảnh về sự chết của tướng sĩ và thường dân vô tội nên thường nằm mộng thấy cô hồn đến đòi mạng: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”- Vua Đường kinh sợ quá cầu kiến pháp sư Huyền Trang nhờ cứu giúp. Ngài Huyền Trang căn cứ vào pháp Duy thức học, giải thích cho vua Đường biết hiện tượng cô hồn là thần thức của người chết oan ức chưa được siêu sinh, gọi là oan hồn uổng tử, có nhiều loại cô hồn. Sau đó, Vua Đường nhờ pháp sư Huyền Trang làm lễ giải oan cho họ. Nương theo Kinh Vu Lan bồn, pháp sư Huyền Trang tổ chức trai đàn tụng Kinh trì chú cầu nguyện vào ngày rằm tháng bảy, sau đại lễ Vu Lan. Bắt đầu từ đây có tục lệ cúng cô hồn, xá tội vong nhân.
Tiếp theo, vào đời Tống Bất Không Tam Tạng, chuyên tu mật giáo ở núi Mông, thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, ngài mở mắt tuệ thấy các loài cô hồn đói khát đến xin ăn. Động lòng từ bi, ngài cho cô hồn thức ăn và đọc những câu thần chú biến thực biến thủy của Phật giúp mọi loài cô hồn được no dạ. Sau đó ngài lập ra pháp Mông Sơn thí thực, theo tích này các chùa chiền công phu chiều đều có cúng cô hồn. Lễ cúng cô hồn ngày rằm tháng bảy chỉ là một ngày kỷ niệm cúng lớn. Trong văn Mông Sơn thí thực có bài kệ nói lên ý chính của lễ cúng cô hồn như sau:
Mãnh hoả diệm diệm chiếu thiết thành,
Thiết thành lý diệm nhiệt cô hồn.
Cô hồn nhược yếu sinh Tịnh độ,
Thính tụng Hoa Nghiêm bán Kệ Kinh:
-Nhược nhơn dục liễu tri,
Tam thế nhứt thiết Phật,
Ưng quán Pháp giới tánh,
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Nghĩa là:
Thành sắt địa ngục lửa tràn đốt cháy,
Cô hồn trong ấy khổ đau thay.
Nếu các cô hồn muốn sanh Tịnh độ,
Tụng nửa Kệ Hoa Nghiêm thoát khổ nầy:
-Nếu người muốn rõ biết,
Chư Phật trong ba đời,
Hãy quán pháp giới tánh,
Tất cả đều do tâm.
Trí giả Đại Sư giải thích, tâm lý chúng sinh có mười pháp giới:
1. -Nhơn sanh vào địa ngục là sân hận.
2. -Nhơn sanh vào ngạ quỉ là tham lam.
3. -Nhơn sanh vào súc sanh là mê si.
4. -Nhơn tánh cương trực nóng nảy sinh thần
5. -Nhơn nửa thiện nửa ác sinh người.
6. -Nhơn tu thập thiện sinh thiên.
7. -Nhơn Thinh văn tu Tứ Diệu Đế được quả Tứ Thánh
8. -Nhơn Duyên giác tu Thập Nhị Nhơn Duyên được quả Bích Chi Phật.
9. -Nhơn tu Lục độ, được quả Bồ Tát.
10. -Nhơn tu Nhứt thừa Phật đạo tự giác, giác tha, giác hạnh Viên mãn thành Phật.
Theo lời Phật dạy, thân thể con người hiện hữu trên đời là kết hợp của ngũ uẩn: Sắc thuộc phần xác: Bốn nguyên tố của đất, nước, lửa, gió. Xác thân của người Thọ nóng lạnh, không nóng không lạnh v.v... Tưởng là tri giác; Hành là sự suy nghĩ, hành động. Thức là sự phân biệt.-Khi chết mất xác thân, tức phần xác tan hủy, thì tinh thần (hồn) thọ, tưởng, hành còn lưu lại trong tâm thức, vong nhân vẫn cảm thấy khổ vui như khi sống. Nếu lòng tham còn, thói quen như đói muốn ăn, không có cái ăn cũng khổ. Hoặc có cái ăn, mà không có miệng để ăn cũng khổ!
Việt Nam ta cũng như các nước Nhật Bản, Triều Tiên, Mông Cổ... xưa ảnh hưởng văn hệ Trung Quốc, quê hương thứ hai của Phật giáo, tín ngưỡng cúng cô hồn rằm tháng bảy, xá tội vong nhân không có chi lạ.
6- Thời điểm làm lễ Vu Lan
Bấy giờ chúng ta có thể đặt câu hỏi: -Lễ Vu Lan rằm tháng bảy, có đúng với lễ Vu Lan phát xuất từ Phật giáo Ấn Độ không?
-Ý nghĩa Vu Lan của Phật giáo Bắc Tông, không khác Phật giáo Nam Tông, nguyên thỉ, nhưng ngày tháng có khác. Hoà thượng Thích Trí Quảng nói: “Phật giáo Nam Tông chủ trương kế thừa hình thức giống y Phật giáo Nguyên thỉ ở Ấn Độ, thời Phật tại thế nên tổ chức an cư Kiết hạ từ tháng sáu đến tháng chín, lấy ngày rằm tháng chín, làm lễ Tự tứ, giữ y theo lịch Ấn Độ, một năm có ba mùa, tháng năm đến tháng chín là mùa mưa. Trái lại, Phật giáo Bắc Tông chú trọng về phần kế thừa tư tưởng, khi Phật giáo du nhập vào quốc gia nào, tuỳ theo sinh hoạt văn hoá truyền thống nơi đó mà uyển chuyển kết hợp giáo lý cho mọi người thăng hoa giải thoát.”(Cảm Niềm Đức Phật)
Phong tục tập quán Trung Quốc từ lâu đời mỗi năm có ba ngày lễ lớn trong dân gian là lễ Thượng nguyên rằm tháng giêng, lễ Trung nguyên rằm tháng bảy, lễ Hạ nguyên rằm tháng mười. Khí hậu Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam có bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông. Miền Trung-Nam Việt Nam mỗi năm có hai mùa mưa nắng. Đầu tháng 4 âm lịch mưa mùa trút xuống, chư Tăng noi gương Phật dừng bước hành hoá tránh dẫm đạp côn trùng, an cư Kiết hạ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, mãn hạ tổ chức Vu Lan Tự tứ, cúng vong nhân và làm lễ Báo Hiếu theo Bắc Tông Đại Thừa Phật giáo.
Ở Việt Nam Phật giáo Nam Tông-Bắc Tông không chống trái nhau về vấn đề Vu Lan tháng bảy; cũng có nơi dung hội lại lễ Vu Lan báo hiếu từ rằm tháng 7 đến rằm tháng 9, gọi là mùa Vu Lan báo hiếu.
7- Ngày lễ Vu Lan cũng là ngày báo hiếu
Báo hiếu là đền đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ nói mấy cũng không cùng. Nơi đây chỉ trình bày sơ lược:
Khi người mẹ thọ thai có nhiều điều kiêng cử. Không dám làm việc nặng nhọc sợ động thai. Không nhìn hình ảnh xấu xa hay nói lời thô tục, sợ ảnh hưởng sắc đẹp, tính tình của con. Ăn uống không dám quá no, sợ bao tử lấn ép thai nhi chật chội. Lúc đau, có những món thuốc uống vào lành bệnh ngay, mà vì sợ kỵ thai không uống phải chịu đau đớn dai dẳng.
Trong khi bà mẹ lo bảo vệ bào thai từ li từ tí thì ông cha phải lao động gấp hai gấp ba để chuẩn bị tiền bạc, củi lửa, thuốc men chờ ngày sinh đẻ. Ca dao có câu:
“ Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang.”
Ngày nay khoa học thực nghiệm đã làm cho ta thấy rõ: Cơ thể con người mỗi phút giây tít tắc sát na có nhiều tế bào sinh tế bào diệt. Tế bào diệt được thảy ra ngoài theo các lỗ chân lông, tức mồ hôi. Trong bảy năm cơ thể hoàn toàn tái tạo. Người mẹ sinh con ba lần hao tổn tinh huyết, thân nhiệt tăng sức đề kháng mạnh hơn, cơ thể hoàn toàn tái tạo. Trong ba lần sanh, mẹ mất hơn bốn năm tuổi thọ.
“Mười tháng thì đến kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngổ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấu lung tung.
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ khôn cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc
Cũng ví như được bạc được vàng.
(Kinh Báo Hiếu phụ mẫu Ân)
Công sanh thành khổ khó như thế, công dưỡng dục cũng gian lao không ít. Ca dao có câu:
“Đã mang chín tháng mười ngày
Giờ thêm bồng ẳm đủ rày ba năm.”
Hài nhi được cha mẹ chuyền tay nhau bồng ẳm, nâng niu chiều chuộng, vắt từng giọt sữa, nhai từng miếng cơm, mớm từng muỗng cháo. Còn cha phải bóp trán suy nghĩ, lo toan, đổ mồ hôi sôi nước mắt xuống cánh đồng hay trong xưởng thợ v.v...Dầm sương giang nắng, gió táp mưa sa. Bao nhiêu thứ ngọt ngon cha mẹ đều dành cho con trẻ. Cho đến trong giấc ngủ từng đêm: “chỗ ướt mẹ nằm,chỗ ráo con lăn.” Có đôi lúc con tiểu tiện trên mình cha mẹ, cha mẹ không buồn, còn thương yêu lo lắng khi trái gió trở trời. Đến khi con khôn lớn phải dạy bảo và đưa vào trường học chữ nghĩa. Hằng ngày con đến trường với bộ quần áo đẹp, thẳng nếp sạch sẽ, quà bánh sum suê, thì cha mẹ phải lao tâm khổ trí, cằn cổi héo mòn, mong con được mở thông trí tuệ, khôn sáng không thua các bạn. Con đến tuổi trưởng thành cha mẹ gầy dựng sự nghiệp, hôn phối cưới vợ gả chồng lo lắng đủ thứ. Vì con suốt đời cha mẹ hy sinh tận tụy, hết lòng. Dù cha mẹ nghèo khó hay giàu sang, lắm khi tạo ác nghiệp cũng vì con. Như thế, người biết nhớ nghĩ đến công ơn cha mẹ mới là con hiếu.
Hiếu cũng có nghĩa là yêu thích, trân trọng, tôn quí cha mẹ bằng tất cả tấm lòng của người con muốn đền đáp công ơn sanh dưỡng. Đặc biệt không nuôi dưỡng cha mẹ với những ác pháp. Báo hiếu hay việc làm hiếu sự phải xuất phát từ trái tim xao xuyến rung động sâu sắc về ơn cha nghĩa mẹ là bóng mát thân thương trong cuộc đời con trẻ. Đạo Phật là đạo trí tuệ siêu thế, bất biến tùy duyên, dung hoá được các nguồn tư tưởng tinh hoa nhân loại, đồng thời siêu thoát tất cả, nên chúng ta cần hiểu cách báo hiếu theo một nghĩa rộng. Báo hiếu theo truyền thống văn hoá dân tộc, báo hiếu theo tinh thần nhân bản, báo hiếu theo tư tưởng giải thoát.
a) Báo hiếu theo tinh thần văn hoá dân tộc qua ca dao
- Hiếu dưỡng: Là dưỡng nuôi cha mẹ từ vật chất đến tinh thần không cho thiếu sót. Vật chất là món ăn, thức uống, quần áo mặc, chỗ ở khang trang tốt đẹp; tinh thần là làm cho cha mẹ vui lòng hướng thiện. Nuôi cha mẹ về phần vật chất quà bánh ê hề, cơm ngon, áo tốt mà không quan tâm đến tinh thần lành mạnh, làm cho cha mẹ buồn khổ, khác nào nuôi gia súc, không thể gọi hiếu nghĩa. Vậy người con hãy nên hôm sớm gần gũi cha mẹ trong mái ấm gia đình, phụng dưỡng cha mẹ từng muỗng cơm, bát nước, theo thời tiết đắp lạnh quạt nồng. Khi cha mẹ ốm đau phải chạy thầy kiếm thuốc, điều dưỡng đúng phép, vâng lời hay lẽ phải làm cho cha mẹ vui lòng đến ngày nhắm mắt, cư tang để hiếu, làm công đức lành hồi hướng đến vong linh cha mẹ.
“Thức khuya dậy sớm chuyên cần
Quạt nồng đắp lạnh giữ phần đạo con.”
- Hiếu thảo: Là dâng món ngon vật lạ đến cha mẹ khi mình có được. Hiếu dưỡng nói về sự báo đáp của người con ở bên cha mẹ. Hiếu thảo nói về người con biết ơn đền ơn cha mẹ dù ở gần gủi hay phải đi xa. Vì theo đuổi công danh sự nghiệp, ở quê vợ quê chồng hay hoàn cảnh trắc trở nào cũng không quên ơn cha mẹ. Ca dao có câu:
“Khôn ngoan nhờ đức cha ông
Lớn lên phải nhớ tổ tông phụng thờ
Làm con chớ có hững hờ
Phải đem hiếu thảo mà thờ từ nghiêm.”
Từ là nói đến lòng lành của mẹ, mẹ hiền. Con có hiếu cũng thương, con bất hiếu cũng thương. Nghiêm là nói đến sự nghiêm khắc của cha. Nếu không có tình thương đại lượng của mẹ, sự giáo hoá khuôn phép của cha, người con khó làm nên trong xã hội. Xã hội nào bao giờ cũng thích tốt ghét xấu. Tâm hiếu thảo được thể hiện tốt qua sự thăm viếng lo lắng cung dưỡng cha mẹ chu đáo. Như lời hát ru:
“Mẹ cha ở túp liều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ mẹ già yếu răng.”
Hiếu dưỡng nói về sự báo đáp thâm ân của người con ở bên cha mẹ. Hiếu thảo nói về bổn phận người con ở bên cha mẹ cũng như xa cha mẹ.
- Hiếu hạnh: Là người con làm hiếu sự phải có phẩm hạnh tốt từ gia đình thân quyến đến xã hội, tổ quốc nhân sinh. Người con hiếu hạnh không bao giờ làm điều gì xấu hư hại gia phong lễ giáo mất mặt cha mẹ, gieo điều chẳng lành cho tông tổ. Khi lâm vào nghịch cảnh cũng không thay lòng đổi dạ. Không vì lợi riêng bất kính bề trên bất nghĩa: nếu mình đối xử tốt với cha mẹ, với mọi người thì con cháu cũng noi gương. Con cái là bản sao của cha mẹ, cũng là đạo lý nhơn quả. Ca dao:
“Nếu mình hiếu với mẹ cha
Thì con cũng hiếu với ta khác gì
Nếu mình ăn ở vô nghì
Đừng mong con hiếu làm gì uổng công.”
- Hiếu đạo: Người con dùng đạo lý báo đáp công ơn cha mẹ tổ tiên nòi giống. Đạo lý ghi lại trong ca dao nói lên phần tinh túy của Tam giáo: Nho giáo chỉ cho trung hiếu tiết nghĩa, lão giáo chỉ cho sự phóng khoáng, Phật giáo chỉ cho ý niệm giải khổ an lạc. Tuy nặng nề tín ngưỡng dân gian hơn là triết lý cao siêu, cũng biểu thị được cái hay đẹp của hiếu đạo, như bài hát ru:
“Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá
Ngó xuống biển thấy cặp cá đang đua
Đi về lập miếu thờ Vua
Lập am thờ Phật lập chùa thờ cha.”
Qua đây chúng ta thấy hiếu tâm phát khởi hiếu hạnh. Trong hiếu hạnh có hiếu dưỡng, hiếu thảo, hiếu đạo, là phương cách báo hiếu theo truyền thống văn hoá dân tộc qua ca dao.
b) Báo hiếu theo tinh thần nhân bản của đạo Nho
Thánh Nho nói: “Thiên Kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên: Ngàn Kinh muôn sách lấy hiếu nghĩa làm đầu.” Kinh thi cũng có câu: Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã; ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực: Cha là nguyên nhân chính tác động mẹ sinh ta, mẹ nuôi dưỡng ta. Hỡi ôi ! Cha mẹ sinh dưỡng thân ta rất khó nhọc. Muốn đền đáp ân đức cha mẹ, khó như với tay lên trời cao chẳng cùng. Ca dao cũng có câu:
“Nhớ ơn chín chữ cù lao
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình.”
Chín chữ cù lao là gì ?- Một sinh, hai cúc, ba phũ, bốn xúc, năm trưởng, sáu dục, bảy cố, tám phục, chín phúc:
1. Sinh: Sinh đẻ khổ khó
2. Cúc: Chở che nâng đỡ chiều chuộng
3. Phũ: Phũ dụ, vuốt ve bồng bế
4. Xúc: Cho bú mớm lao nhọc
5. Trưởng: Nuôi cho lớn lên
6. Dục: Dạy cho điều hay lẽ phải
7. Cố: Đoái tưởng ngóng trông
8. Phục: Phục vụ chăm sóc tận tụy
9. Phúc: Tâm phúc, bảo vệ gìn giữ.
Cù là siêng năng, lao là lao nhọc. Cù lao: Cha mẹ siêng năng lao nhọc nuôi dưỡng thân con, giáo dục con nên người. Truyện Kiều cũng có câu:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn.
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.”
Nhà thơ Nguyễn Du mô tả tâm trạng lo âu khắc khoải của nàng Kiều trước khi quyết định bán mình chuộc cha làm hiếu sự.
Sách Minh Tâm dẫn lời thầy Mạnh Tử dạy Ngũ Kỳ:
1. Cư tắc chí kỳ Kính: Ở kính trọng bậc thân sanh
2. Dưỡng tắc chí kỳ lạc: Dưỡng nuôi cha mẹ lòng vui
3. Bịnh tắc chí kỳ ưu: Cha mẹ bệnh hết lòng lo lắng
4. Tử tắc chí kỳ ai: Cha mẹ chết lòng buồn khổ
5. Tế tắc chí kỳ nghiêm: Cúng tế trang nghiêm chu tất.
Con không kính trọng cha mẹ, chắc cha mẹ đã có lỗi lầm gì, còn công sanh dưỡng giáo dục, chỉ có kẻ vong ơn bội nghĩa mới khinh thường cha mẹ! Người nuôi dưỡng cha mẹ, tỏ ra buồn phiền là người ích kỷ bỏn xẻn, không thể nào ban ơn cho ai. Một khi họ ban ơn giúp đời thì đó cũng là một thủ đoạn ! cha mẹ bệnh con không lo lắng là người không yêu thích song thân mình, người đó có thể quí thương ai được, một kẻ thiếu nhân tâm thì chuyện ác gì họ cũng có thể làm. Cha chết lòng con vui là vì rãnh được một món nợ, được thụ hưởng tài sản hay được chia của là người có lòng tham quá đáng, thú tính cũng từ đó nẩy nở. Cúng tế cha mẹ có sơ sót thì là người bất cẩn khó làm nên. Như sách gia Ngữ ghi chuyện đời Xuân Thu, họ Công Sách sắp tế lễ, trong các lễ vật bỏ quên không đặt con sinh. Khổng Tử nghe chuyện nói:- “Trong hai năm nửa, họ Công Sách sẽ mất chức quan.” Quả nhiên một năm sau họ Công Sách mất chức quan thật. Môn Sinh hỏi: Vì lẽ gì thầy biết trước hay vậy?- Khổng Tử nói: “Việc tế lễ là việc người con hiếu tỏ lòng thương nhớ cha mẹ, mà lúc sắp tế bỏ quên con sinh, thì các công việc khác bỏ quên sơ sót chắc nhiều, không mất quan không có lý.”
c) Báo hiếu theo đạo Phật qua tư tưởng giải thoát
Có một số người nhìn vào hạnh từ khước hạnh phúc thế gian, xuất gia tầm đạo của đức Thế Tôn và đời sống cô đơn biệt lập của chư vị Tăng ni nơi chùa chiền am cốc rồi vội vàng kết luận: “Đạo Phật vô tình quá, không nghĩ đến công sanh đẻ dưỡng nuôi của cha mẹ.” Sự thật thì khác hẳn, đức Phật rất quan tâm đến vấn đề báo hiếu. Rãi rác trong các Kinh điển Phật giáo ngài đều có đề cặp đến ơn cha, nghĩa mẹ, bổn phận làm con đền ơn báo hiếu một cách thống thiết. Kinh Nhẫn Nhục hệ Nguyên thỉ Phật dạy: “Thiện cùng cực không gì hơn hiếu, ác cùng cực không gì hơn bất hiếu.” Kinh Tập Bảo Tạng, hệ Đại Thừa phát triển: “ Làm con đối với cha mẹ đem lễ mọn cúng dường được phước vô lượng, làm chút điều bất thiện cũng tội vô lượng.” Kinh Tứ Thập Nhị chương: “Phàm người phụng thờ quỷ thần, không bằng phụng thờ cha mẹ. Cha mẹ là vị thần tối thượng !”
Nghiên cứu lời Phật dạy về báo hiếu, chúng ta thấy ngài dạy từ cách báo hiếu thế gian, ý nghĩa như ca dao và Thánh Nho, rồi ngài lưu ý đến đạo lý nhân quả, tu tâm dưỡng tánh dẫn đến xuất thế gian thành Phật đạo mới trọn vẹn tâm hiếu.
Kinh A Hàm đức Phật dạy:
“Nuôi dưỡng cha mẹ đừng cho thiếu thốn
Làm việc gì cũng trình cha mẹ biết trước
Cha mẹ làm việc gì, con phải thuận theo, không trái ý.
Không dứt nghiệp chánh của cha mẹ.”
Tuy là Phật dạy hiếu dưỡng, hiếu thảo, hiếu hạnh tuỳ thuận thế gian, nhưng có khác ở chổ: “ Không làm trái lịnh chánh của cha mẹ, không dứt nghiệp chánh của cha mẹ.”- Chánh là đối lại với tà, cũng là Bát chánh đạo. Đi vào con đường tà dù có báo hiếu cha mẹ cũng khổ đau. Đi vào con đường chánh báo hiếu cha mẹ sẽ được an lạc!
Tăng Chi Bộ Kinh tập I, trang 75, đức Phật dạy: “Những ai đền ơn báo hiếu bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với các vật chất của cải tiền bạc, không đủ đền ơn cha mẹ... Đối với cha mẹ không có lòng tin Phật pháp, khuyến khích an trú vào thiện giới. Cha mẹ xan tham khuyến khích an trú vào bố thí, cha mẹ theo ác trí tuệ, khuyến khích vào trí tuệ. Đó là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha.”
Cũng trong Tăng Chi Bộ Kinh, tập I trang 124, đức Phật còn dạy, người con hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, nhiếp phục thân khẩu ý thanh tịnh, trở thành bậc chân nhân được chư thiên khen ngợi như sau:
“Ai hiếu dưỡng cha mẹ
Kính trọng bậc gia trưởng
Nói những lời nhu hòa
Từ bỏ lời hai lưỡi
Chế ngự lòng sân tham
Là con người chân thật
Nhiếp phục được phẫn nộ
Với con người như vậy
Chư thiên Tam Thập Tam
Gọi là bậc chân nhân.”
Những ai thực hành hiếu đạo được đức Phật khen ngợi: “Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật.”- Đã là Phật là có bốn đức tính từ bi hỉ xả, mười danh hiệu, thập lực vô uý v.v... xót thương cứu giúp muôn loài. Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới xác định: “Chưa từng có một chúng sinh không là mẹ cha ta trong nhiều đời nhiều kiếp luân hồi sinh tử.”
Nay chúng ta phát Bồ Đề tâm tu hành theo hướng dẫn của Tứ Hoằng thệ nguyện:
“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô lượng thệ nguyện thành.”
Chúng ta noi theo đường chánh của Phật Bồ Tát: “ Còn một chúng sanh chưa thành Phật, quyết không nhập Niết Bàn.” Cũng gọi là hiếu đạo. Muốn được như thế, phải thực học, chơn tu, thật chứng, tâm đạt đến chơn như thật tướng, hạnh hướng thượng mới cầu toàn lợi ích chúng sanh, mỗi hành vi sáng tõ trí bát nhã tự tánh cũng là đạo hiếu.
C. KẾT LUẬN
Ngày lễ Vu Lan thắng hội rằm tháng 7, là một ngày lễ truyền thống văn hóa về hiếu hạnh rất quan trọng. Ngày mà người Phật tử tại gia hay tăng lữ xuất gia làm hiếu sự, cho đến thánh Tăng, Bồ Tát, Phật đều tham dự chứng minh, chú nguyện cho âm siêu dương thới. Theo Kinh Vu Lan:
“Vì ngày ấy thánh tăng đều đủ,
Dầu ở đâu cũng tụ hội về.
Như người thiền định sơn khê,
Tránh điều phiền não chăm về thiền na.
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả,
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh.
Hoặc người thọ hạ kinh hành,
Chẳng ham quyền quí ẩn danh lâm tòng.
Hoặc người đặng lục thông tấn phát,
Và những hàng Duyên-Giác thanh văn.
Hoặc chư Bồ Tát mười phương,
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh”
Ca dao cũng nhắc nhở:
Dù ai mua đâu bán đâu
Vu Lan tháng bảy rủ nhau mà về.
Ta về với mái ấm gia đình tõ lòng biết ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục, tưởng nhớ tổ tiên nòi giống, người đã cho ta huyết thống hình hài, non sông gấm vóc.
Ta về với chùa chiền thân yêu thăm thầy tổ, bước lên chánh điện đốt nén nhang thơm, quỳ xuống trước đấng tam tôn, nghe lòng dâng lên niềm hiếu kính.
Hòa nhập vào lễ hội Vu Lan, kính nhờ hồng ân Tam bảo chú nguyện cho cha mẹ, thân quyến, chúng sanh kẻ còn người mất an vui hạnh phúc là ta biết mình có phần nào hiếu nghĩa.
Trong ba cõi sáu đường vui khổ Nhân Thiên dừng lại đi xuống rất dễ. Phấn đấu tu hành vượt lên khó. Người con báo hiếu khó khăn nào cũng vượt qua. Muốn Chư Phật xót thương cứu giúp mình phải tự độ mới có tha độ.
Ý thức ngày lễ Vu Lan thắng hội, Tự tứ , tế độ vong nhân, cốt tủy vẫn là ngày báo hiếu. Chúng ta thiết lập trai nghi phẩm vật, tịnh tín cúng dường chí thành thông thánh.
Đã có việc phước hữu vi rồi, chúng ta nương Kinh Bát Nhã Ba La Mật, tu huệ vô vi, nhiếp phục khát ái tham sân si phát triển hạnh lành thành tựu công đức báo hiếu như tôn giả Mục Kiền Liên cứu mẹ, làm gương sáng cho đời tiếng thơm muôn thuở.
Chú thích:
1. - Mười danh hiệu:
1) Như Lai: Người đi theo con đường Như thực đến quả chánh giác.
2) Ứng cúng: Xứng đáng được Nhân thiên cúng dường.
3) Chánh biến tri: (Samya Ksam Buddha). Người có trí biết rõ mọi pháp.
4) Minh hạnh túc: Hạnh tam minh cụ túc. Biết quá khứ, hiện tại, vị lai ứng sử đúng đắn sáng tõ vì tâm đã sạch phiền não sai lầm.
5) Thiện thệ: Thệ nguyện của bậc đại từ bi. Dùng nhất thiết trí làm cổ xe lớn đi trên đường Bát chính đến Niết bàn.
6) Thế gian giãi: Hiểu được mọi sinh diệt của các loài hữu tình nơi cỏi thế gian.
7) Vô thượng sĩ: Trong tất cả các pháp Niết bàn là vô thượng, trong tất cả chúng sinh Phật là vô thượng.
8) Điều ngự trượng phu: Phật dùng lời dịu dàng tha thiết từ trí vô lậu chế ngự được các bậc trượng phu.
9) Thiên nhân sư: Thầy dạy bảo người đời điều hay lẽ phải.
10) Phật, Thế Tôn: Đấng giác ngộ được thế gian tôn kính.
2. - Thập lực: Mười sức mạnh biểu hiện trí đức Như Lai:
1) Trí lực biết sự vật nào có đạo lý hay không.
2) Trí lực biết rõ nhân quả nghiệp báo ba đời của chúng sanh.
3) Trí lực biết tất cả pháp thiền định giãi thoát.
4) Trí lực biết mỗi căn tín chúng sinh để giáo hóa.
5) Trí lực biết mọi tri giãi của tất cả chúng sanh.
6) Trí lực biết đúng mọi cảnh giới khác nhau của tất cả chúng sanh.
7) Trí lực biết hết các đạo lý mà người tu hành sẽ đạt đến kết quả.
8) Trí lực vận dụng thiên nhãn thấy suốt sinh tử thiện ác của chúng sinh.
9) Trí lực biết rõ túc mạng của chúng sinh hữu lậu và vô lậu Niết bàn.
10) Trí lực biết rõ mọi vọng hoặc tàn dư tập khí đoạn diệt vĩnh viễn.
3. - Vô sở uý: Điềm tĩnh không sợ hãi. Do ngài có nhất thiết trí cắt đứt tất cả phiền não, biết rõ sinh diệt hoặc nghiệp chướng pháp, Ngài thuyết rõ chính đạo giới định tuệ diệt tận chư khổ não.
Mục Lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 |