Chùa Dạm, tên chữ là Cảnh Long Đồng Khánh tự hay Đại Lãm Tự là ngôi chùa cổ ngàn năm tuổi nằm ven sườn phía Nam núi Đại Lãm (xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh). Dù trải bao biến cố thời gian, chùa vẫn giữ được những vết tích gợi nhắc về một công trình kiến trúc từng được mệnh danh là đại danh lam thắng cảnh thời nhà Lý.
Theo sử sách và truyền tích thì sự ra đời của ngôi chùa này gắn liền với công khởi xướng của bà Nguyên Phi Ỷ Lan (còn gọi là bà Tấm), vợ vua Lý Thánh Tông. Các sách “Việt sử lược, Đại Nam nhất thống chí, Lịch triều hiến chương loại chí” đều chép thống nhất rằng: Năm Quảng Hựu thứ nhất (1085) Thái hậu Ỷ Lan đi chơi, thấy nơi đây có núi sông cảnh đẹp và có ý muốn xây dựng tháp ở đó. Đến năm Quảng Hựu thứ 2 (1086), vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng chùa trên núi Đại Lãm. Chùa được triều đình nhà Lý cho xây dựng với quy mô 8.000m2 trong suốt 8 năm liền. Đến năm 1105 lại cho xây dựng 3 cây tháp đá ở chùa Đại Lãm.
Nguyên bản chùa Dạm xưa có tới 100 gian và là nơi Nguyên Phi Ỷ Lan về tu hành vào lúc cuối đời. Sử sách ghi lại, chùa Dạm có quy mô kiến trúc to lớn, với 4 lớp nền giật cấp bám lấy độ cao của núi Dạm. Các lớp nền đều được kè đá tảng lớn để chống xói lở. Các vách đá của các lớp nền cao từ 5-6m, mỗi viên đá rộng 0,50- 0,60m. Nối các tầng nền với nhau là các bậc thềm lát đá. Trên các tầng nền hiện còn dấu tích gạch ngói thời Lý có hoa văn hình rồng, phượng, sen dây, cúc dây; những chân cột bằng đá (0,75m x 0,75m) chạm nổi những cánh sen rất nghệ thuật. Tại tầng nền thứ hai từ dưới lên (khoảng giữa cửa chùa) có 2 khối đất hình nấm nằm đối diện nhau, đều được kè đá chạm hoa văn hình sóng nước nhô cao (thủy ba). Dân gian lưu truyền rằng, ngôi chùa lớn đến mức, cứ sau ngày rằm hàng tháng người ta mới đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc trăng lên cao mới đóng hết tất cả các cửa. Huyền tích kể lại là chùa trăm gian phải cần tới bảy gia đình dưới chân núi chuyên việc đóng mở cửa chùa hàng ngày.
Cột đá ở chùa Dạm
Theo nhân dân địa phương, vào những năm 1946-1947, quân đội thực dân Pháp về đây đóng bốt, nhân dân địa phương đã đốt chùa để tiêu thổ kháng chiến. Khi phá chùa, tượng mẫu Nguyên phi Ỷ Lan và tượng Vua Lý Nhân Tông được gửi vào chùa Hàm Long gần đó nên mới giữ được đến ngày nay. Toàn bộ di vật, cổ vật đã mất hết nên người dân coi hai pho tượng cổ đó là bảo vật. Hiện tại 100 gian xưa giờ được thay bằng ba gian điện nhỏ thờ thần Phật (ở nền cấp thứ ba) và ba gian đền (ở nền cấp thứ tư) thờ hai cổ vật còn sót lại là tượng Nguyên phi Ỷ Lan và Vua Lý Nhân Tông. Cả chùa và đền mới đều được xây dựng từ năm 1996, do nhân dân địa phương đóng góp.
Để tìm hiểu hướng phục dựng chùa Dạm, cuối năm 2011, tỉnh Bắc Ninh đã mời các chuyên gia tiến hành khai quật khảo cổ trên toàn bộ khuôn viên chùa với diện tích hơn 300m2. Qua quá trình khai quật phát hiện chùa vẫn còn lưu giữ được nhiều dấu tích có giá trị lịch sử cao như những bức tường kè đá khổng lồ được xếp bởi hàng nghìn phiến đá cắt gọt cẩn thận; các tầng cấp nền móng và hệ thống trụ sỏi lớn đường kính trên 1m. Số trụ sỏi tìm thấy còn khá nguyên vẹn, có nét tương đồng với trụ sỏi ở Hoàng thành Thăng Long. Bên cạnh đó, hàng loạt di vật được tìm thấy ở đây cũng thể hiện rõ dấu ấn nghệ thuật thời Lý. Tiêu biểu là những hình đầu rồng nhỏ, gạch ngói khắc hình rồng phượng, sen dây, cúc dây hay những chân cột đá chạm nổi hình cánh sen…
Bên cạnh những giá trị văn hóa vật thể, chùa Dạm còn bảo lưu nhiều giá trị văn hóa phi vật thể như truyền thuyết, giai thoại, thơ ca, hò vè, tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội. Trong đó nổi bật là tín ngưỡng và Lễ hội chùa Dạm. Hàng năm, cứ chuẩn bị đến ngày 8 tháng 9 Âm lịch, người dân sống quanh núi Dạm (xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) lại khẩn trương thu hoạch vụ lúa mùa, sắp xếp công việc, dọn dẹp cửa nhà để mở hội đón khách. Không tưng bừng, dồn dập và đông nghẹt người như những lễ hội đầu xuân ở miền Quan họ, Lễ hội chùa Dạm diễn ra vào mùa thu nên mang vẻ trầm tĩnh, bình yên hơn. Men theo sườn núi trẩy hội chùa Dạm, du khách như thoát khỏi thế giới trần tục, hòa nhập vào cõi Phật linh thiêng trong một phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ hội đủ núi non, suối sông, ao hồ với đồng bằng phì nhiêu cò bay thẳng cánh… Ngày chính hội, các làng quanh chùa Dạm mở hội với nghi lễ rước kiệu Thành Hoàng làng lên chùa Dạm yết kiến Thánh Mẫu. Đám rước kiệu Thánh của các làng có đầy đủ cờ, kiệu, tàn, lọng, siêu đao, bát bửu, trống, chiêng… Khi kiệu các làng lên đến chùa, trong chùa quan viên tế lễ Thánh Mẫu và mâm tế bao giờ cũng phải có bánh chưng, bánh dày mỗi loại 10 chiếc; ngoài sân chùa diễn ra nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật như: Biểu diễn tuồng, chèo và các trò chơi dân gian: Đu cây, đấu vật, đi cà kheo, cờ người, cờ tướng, thi dệt vải, thi nấu cơm thu hút đông đảo nhân dân địa phương và khách thập phương tham dự.
Dấu tích chân tháp chùa Dạm
Với những giá trị lịch sử và nghệ thuật nêu trên, đền, chùa Dạm, thờ cô Tấm và Nguyên phi Ỷ Lan đã được Bộ Văn hóa - Thông tin nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa từ năm 1962. Với những gì còn sót lại, chùa Dạm xứng đáng là ngôi chùa cổ ngàn năm tuổi như những gì được miêu tả trong sử sách. Vẻ đẹp và hồn cốt của ngôi chùa vẫn còn vẹn nguyên với thời gian.
chuaviet.org tổng hợp