Vào những năm cuối thế kỷ XVII (1742), Chúa Nguyễn Phúc Khoát cho di dân từ các tỉnh miền Trung vào miền Nam khai khẩn đất hoang để lập làng định cư, sinh sống. Trong đoàn người ấy có một vị Ni cô (không rõ tên) am hiểu về cây thuốc Nam đã đến xóm Dầu (nơi này ngày xưa nhân dân sống bằng nghề ép dầu mù u) lập am nhỏ để tu niệm và trồng cây thuốc chữa bệnh cho nhân dân quanh vùng. Sau khi Ni cô qua đời, không người kế vị, những cây thuốc quý không người chăm sóc nên ngày một sinh sôi, nảy nở.
Năm Gia Long thứ 2 (1803), bà Phạm Thị Đạt là một Phật tử giàu có và mộ đạo nhất trong vùng đã rước Hòa thượng Tiên Thiện - Từ Lâm từ chùa Đức Lâm về trụ trì. Bà bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa bằng các loại gỗ quý, có quy mô lớn và tồn tại đến ngày nay. Để tưởng nhớ đến công đức của vị Ni cô sáng lập ra Chùa đầu tiên và thấy nhiều cây thuốc quý mọc quanh chùa, Hòa thượng Tiên Thiện đặt tên chùa là "Bửu Lâm" với ngụ ý "báu vật nhiều như cây trong rừng".
Chùa Bửu Lâm là một trong những ngôi Cổ tự có mặt sớm tại vùng đất Mỹ Tho còn giữ lại nhiều di tích cổ. Giai đoạn đầu từ năm 1742 – 1802 là thời kỳ ban sơ nên không còn tư liệu. Theo các long vị hiện còn tại chùa cho thấy ngôi cổ tự này đã trải qua các đời trụ trì như:
- 1804 - 1859: Hòa thượng Tiên Thiện – Từ Lâm.
Hòa thượng Từ Lâm là một vị Cao Tăng được triều đình nhà Nguyễn phong chức vị Tăng Cang và cấp bằng Giới Đạo Độ Điệp để tiếp Tăng độ chúng.
- 1860 - 1878: Hòa thượng Minh Phước – Từ Trung.
- 1878 - 1881: Hòa thượng Minh Đạt – Huyền Dương.
- 1882 - 1900: Hòa thượng Minh Tông – Nhứt Bổn.
- 1901 - 1969: Hòa thượng Như Lý - Thiên Trường.
Hòa thượng Thiên Trường là một nhà sư yêu nước, nhiệt tình ủng hộ cơ sở hoạt động Cách mạng tại chùa nhiều năm. Trước khi xuất gia Hòa thượng có hai người con trai, hai vị này về sau thoát ly hoạt động cách mạng. Vốn là một cao Tăng rất giỏi Nho học, Hòa thượng Thiên Trường được đề cử giữ chức Tăng trưởng Giáo hội Lục hòa. Ngài viên tịch năm 1970, hiện nay có bảo tháp thờ sau chùa.
- 1970 - 1973: Hòa thượng Hồng Căn – Nguyên Tịnh.
- 1974 - 1976: Hòa thượng Hồng Lệ - Chơn Minh.
- 1977 - 1979: Cô Diệu Đạt.
- 1980 -1982: Thầy Thích Tịnh Tín.
- 1983 -1984: Thầy Thích Lệ Quảng.
- 1985 - 1995: Hòa thượng Thích Nhựt Chiểu – Huệ Thông.
Hòa thượng Thích Huệ Thông là một nhà sư hoạt động cách mạng, đã được Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; Huy chương chống Mỹ hạng Nhất; Huy chương vì sự nghiệp Đại đoàn kết toàn dân; Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tặng 01 Bằng khen hạn nhất, 01 Huy hiện Lê-nin và 01 Huy hiệu Hồ Chí Minh. Ngoài ra Ngài còn được tặng nhiều Giấy khen của Ủy ban Nhân dân, UB MTTQVN tỉnh Tiền Giang; Bằng tuyên dương công đức của Hội đồng Trị sự GHPGVN và nhiều bằng khen khác. Ngài cũng là một trong những vị chủ chốt đứng ra vận động thành lập Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Tiền Giang vào năm 1985. Ngài nguyên là Thành viên HĐCM GHPGVN, Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Tiền Giang nhiệm kỳ IV đến nhiệm kỳ VI (1994 – 2002). Hòa thượng viên tịch vào ngày 12/7/2006
- Năm 2005, vì thấy tuổi cao sức yếu, Hòa thượng Thích Huệ Thông đã giao trọng trách Trụ trì chùa Bửu Lâm lại cho đệ tử là Đại đức Thích Lệ Hiếu trông coi Tam Bảo và điều hành Phật sự cho đến nay.
Về kiến trúc: Ban đầu khi thành lập, chùa Bửu Lâm được xây dựng theo lối kiến trúc “nội Công ngoại Quốc”, gồm 05 nóc khang trang: Tiền sảnh, Chánh điện, Tổ đường và Tăng xá. Các cây cột được làm bằng gỗ Căm Xe và Cà Chất; kèo chạm võ đậu; đòn tay, rui, mè bằng gỗ thau lau; mái lợp ngói âm dương; nền đúc cao 1m, lát gạch tàu.
Trải qua 12 đời truyền thừa và hơn 200 năm tồn tại, với nhiều lần trùng tu nhưng chùa Bửu Lâm vẫn còn giữ được nét kiến trúc cổ kính thuở ban đầu. Lần trùng tu đầu tiên là năm 1803, nhưng đáng kể nhất là lần trùng tu sau cơn bão năm Giáp Thìn 1904 do Hòa thượng Như Lý tự Thiên Trường, kiến trúc đó ngày nay vẫn còn giữ lại gần như nguyên vẹn. Lần trùng tu tôn tạo lớn vào năm Giáp Tý 1984 do Hòa thượng Nhựt Chiếu tự Huệ Thông thực hiện. Năm 1994 Hòa thượng Huệ Thông cho sửa lại mặt tiền Chùa và tiếp tục tôn tạo ngôi chùa cổ khang trang và đẹp hẳn lên như chúng ta thấy hôm nay.
Hiện nay chùa Bửu Lâm thờ theo phong cách Phật giáo Bắc truyền dòng Lâm Tế Chánh Tông ở Nam bộ. Chùa được xây dựng gồm 3 phần: Tiền đường, Chánh điện và hậu Tổ, tất cả nằm trên nền cao 1m, có diện tích 987m2. Mái lợp ngói hình vảy cá gồm 2 lớp mái cách khoảng. Mặt dựng được trang trí hoa văn rất đẹp. Trên bệ thờ của ngôi Chánh điện là Tôn tượng Phật A Di Đà ngồi, gương mặt nhân hậu, xung quanh còn có các pho tượng Phật, Bồ Tát, La Hán lớn nhỏ làm bằng nhiều loại vật liệu với dáng vẻ khác nhau. Gian Chánh điện được trang trí 9 bộ bao lam với những họa tiết và đường nét tinh xảo. Bộ bao lam trước bàn thờ chánh điện chạm lộng công phu với bộ "Cửu Long phún thủy" và đôi long trụ "Cá hóa rồng" sơn son thếp vàng óng ánh. Các bộ bao lam còn lại được chạm khắc mai điểu, song phụng chầu cuốn thư, mẫu đơn, chim trĩ và các họa tiết tứ linh, tứ quí, sen ... Bên cạnh đó, nghệ thuật chạm khắc gỗ còn được thể hiện trên 12 tấm hoành phi nền là một tấm gỗ dày 20cm, trên chạm 2 đến 3 lớp với hoa văn được thể hiện công phu, sinh động, xung quanh chạm tứ linh, lưỡng long tranh châu ... Đó là những tác phẩm khắc chữ nổi rất độc đáo, thực hiện bởi các đôi tay tài hoa, khéo léo của những nghệ nhân chạm trổ cách đây trên 100 năm.
Lối xuống nhà Tổ có 3 khuôn cửa lam chạm trổ tinh tế. Ngôi Chánh điện và Hậu Tổ được nối với nhau bằng hai dãi nhà với khoản trống thông thoáng của sân thiên tĩnh được tôn trí tượng Bồ Tát Quán Thế Âm. Hậu Tổ tôn trí ban thờ Bồ Tát Chuẩn Đề, khám thờ long vị chư Hòa thượng Tổ sư khai sơn, truyền thừa tại chùa Bửu Lâm, tất cả đều được sơn son thếp vàng rất đẹp.
Phía sau ngôi Hậu Tổ là khu vườn Tháp – nơi an trí nhục thân chư Hòa thượng trụ trì qua các thời đại.
Chùa Bửu Lâm là một công trình kiến trúc cổ tiêu biểu nhất thế kỷ 19 ở đồng bằng sông Cửu Long. Về mặt lịch sử chùa còn là cơ sở cách mạng vững chắc của Thị ủy Mỹ Tho trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc. Từ năm 1926 đến năm 1945, chùa Bửu Lâm là nơi tụ họp của các nhà yêu nước, trong đó có các cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh), Phan Chu Trinh, Mai Bạch Ngọc, Nguyễn Văn Nguyễn, Xích Hồng v.v… Hòa thượng Như Lý tự Thiên Trường là bạn thâm giao của cụ Phan Chu Trinh. Có lần vì công việc được giao khá quan trọng nên Hòa thượng phải thức sáng đêm để tìm phương pháp giải quyết, Cụ Phan nhìn cây đèn sáp loe loét bên phòng nên đã xuất khẩu thành thơ, tặng Hòa thượng Như Lý, trong đó có hai câu:
“Mở cửa vì dân nên gió lọt
Trót đêm nhỏ giọt tỏ cùng ai.”
Chùa cũng là nơi thành lập chi bộ Xóm Dầu, một trong những chi bộ Ðảng đầu tiên của tỉnh Tiền Giang, vào đầu năm 1930. Năm 1945, chiếc đại hồng chung cổ của chùa được Hòa thượng hiến cho cách mạng để sản xuất vũ khí, góp phần vào cuộc kháng chiến dành độc lập của dân tộc ta.
Chùa Bửu Lâm còn là nơi được Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Tiền Giang dùng làm nơi mở nhiều khóa An cư Kiết hạ, tổ chức Đại Giới Đàn và là Trường Phật học đào tạo được nhiều vị Tăng tài đức, góp phần xiểng dương Phật pháp.
Sau khi tiếp nhận trọng trách tại chùa Bửu Lâm, Đại đức Thích Lệ Hiếu một lòng tuân theo lời di huấn của Thầy, tiếp tục giữ gìn và phát huy Tam Bảo. Từng bước không ngừng sửa sang, bồi đắp ngôi Cổ tự ngày càng tráng lệ hơn. Bắt đầu từ tháng Giêng năm 2007, Đại đức Trụ trì cho xây dựng Tôn tượng Quan Âm lộ thiên phía trước sân chùa. Năm 2008, cho kiến tạo khu vườn tượng Lâm-tỳ-ni, dựng Đại tượng Phật Di Lặc, Phật Thích Ca nhập Niết-bàn, xây mới cổng Tam quan và chỉnh trang lại toàn bộ khuôn viên chùa thêm thoáng mát, thanh u.
Tiếp theo những năm sau, Đại đức Thích Lệ Hiếu tiến hành xây dựng nhà khách Tăng, Giảng đường để cho Phật tử về tham dự khóa tu định kỳ mỗi tháng có nơi thính pháp và học hỏi giáo lý Đức Phật.
Có duyên được tham gia công tác trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Tiền Giang và thành phố Mỹ Tho nhiều nhiệm kỳ qua. Hiện tại với cương vị là Ủy viên Thường trực Ban trị sự, Trưởng ban Kiểm soát Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Tiền Giang, Phó trưởng Ban Thường trực BTS Phật giáo thành phố Mỹ Tho; Đại đức Thích Lệ Hiếu luôn muốn đem Phật pháp đến với mọi người, nên đã thường xuyên tổ chức tặng quà cho người nghèo, vận động giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn, người già neo đơn, người tàn tật… vào các dịp lễ lớn của Phật giáo cũng như của đất nước, qua đó góp phần làm cho Phật pháp ngày càng xương minh, quê hương ngày thêm phồn thịnh.
Chùa Bửu Lâm hiện đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia theo Quyết định số 61/1999/QĐ-BVHTT ngày 13 tháng 9 năm 1999.
Hồng Anh/Chuaviet.org (tổng hợp)