Đạo Phật là đạo Từ Bi cứu khổ. Lòng Từ chư Phật thương xót chúng sanh hơn Mẹ thương Con. Cũng bởi vì chúng sanh khổ mà Phật thị hiện trên đời để giúp chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến, vĩnh viễn giải thoát khỏi biển khổ sanh tử luân hồi.
Tâm chúng sanh vốn dĩ tham – sân – si mà thân – khẩu – ý tạo nghiệp không ngừng, chiêu cảm quả báo trong Lục đạo luân hồi không dứt. Tất cả cũng vì nhu cầu không ngừng của ăn, mặc, ở, (điều trị) bệnh. Ăn sao cho ngon mà không ngừng giết hại sanh mạng của muôn loài; mặc sao cho đẹp, cho hợp thời nhằm tô điểm sắc thân giả tạm; muốn ở nhà cao, giường rộng, tiện nghi thoải mái mà bất chấp có phải là “chánh nghiệp” hay không; khi bệnh tật thì lại sát sanh hại mạng giúp bồi dưỡng thây thúi này… Tất cả cũng vì vô minh, chấp ngã – chấp pháp mà ra. Đến khi thọ khổ lầm than thì than trời trách đất sao quá đỗi bất công; nếu gieo nhân lành được giàu sang thì lại sanh tâm bủn xỉn, keo kiệt, được một muốn bội phần… mà không chia sẻ với những người bất hạnh; rồi vì tà tâm – tà tín mà biến đạo Phật thành đạo mê tín để cầu xin, cầu tự hay cúng bái cho thoả dục vọng của bản thân; đến khi sự mong cầu không như ý thì khinh chê, phỉ báng Phật Pháp không linh nghiệm. Sao không ngộ rằng khi thọ khổ là kết quả của nghiệp bất thiện mình gieo tạo trước đây, cũng là cơ duyên giúp cảnh tỉnh mà tự biết phải thành tâm sám hối tu hành giải nghiệp; còn được giàu sang phú quý do thiện nghiệp thì nên vun bồi trưởng dưỡng tâm Bồ-đề, hành thiện sự giúp đẹp đời đẹp đạo. Tham-sân-si thật đáng sợ vô cùng, nghiệp tội gieo sẽ thọ khổ khôn xiết.
Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-Đề!
Trong Lục đạo, sự thống khổ nơi địa ngục là nhiều nhất. Nếu còn một chúng sanh nào phải thọ báo ở địa ngục thì nguyện không thành Phật, còn một chúng sanh nào trong lục đạo luân hồi thì nguyện không chứng Bồ Đề. Đó chính là Hạnh – Nguyện vô lượng vô biên của Chư Phật 10 phương 3 đời. Người con Phật, tu theo hạnh Phật, sao có thể khác được. Nhưng phải lập nguyện như thế nào mới đúng là chơn nguyện?
1. Đa phần người tu hiện nay hiểu về “nguyện” không rốt ráo. Không phải hành giả thắp hương, khấn nguyện trước bàn thờ Phật là mình đã lập nguyện rồi. Vì sao? Vì đó là “thân tâm phàm phu” của hành giả nguyện chứ không phải “tâm Phật” nguyện. Rõ ràng thân đứng thắp hương, tâm còn nghĩ tưởng chọn lựa nguyện nào cho phù hợp với ý mình (có tác ý chứ không phải tự nhiên), câu cú sao cho có vần điệu, hợp với sở cầu… Đó hoàn toàn không phải trong trạng thái thiền định miên mật, buông xả thâm tâm mà nguyện thì sao gọi là “tâm Phật nguyện” được. Chư Phật cũng không chứng cho những vọng nguyện này.
2. Nên biết “chơn nguyện” xuất phát từ lòng Từ-Bi vô lượng muốn cứu độ hết thảy muôn vạn chúng sinh, sẵn sàng hy sinh thân mình mà không màng sanh tử. Tâm hành giả hoàn toàn vô ngã – vô trụ trong trạng thái thiền định miên mật thì “chơn nguyện” mới xuất sanh được. Nói rõ hơn, hành giả nếu ai công phu niệm Phật thì phải đạt đến cảnh giới Niệm Phật Tam Muội (tức tâm muốn khởi niệm “Nam mô A Di Đà Phật” mà không khởi được, dù chỉ một từ); hoặc ai tham thiền phải đạt đến cảnh giới Vô Niệm (câu thoại đầu không còn khởi lên được nữa) thì trong cảnh giới Vô Niệm Tam Muội ấy, tự tâm Phật của hành giả khởi lập nguyện mà không hề tác ý. Đó mới đúng là chơn nguyện vì nguyện ấy xuất phát từ tâm Từ Bi, Tánh Phật của Bậc kiến tánh (đạt đến Vô Niệm tức Kiến Tánh, liễu thoát tử sanh) nên 10 phương Phật chứng. Rõ thấy, nếu công phu chưa tới Vô Niệm, hành giả muốn khởi câu niệm Phật (hay tham thoại đầu) đều có thể tuỳ ý khởi, muốn dừng thì dừng; còn thành tựu Vô Niệm thì dù muốn khởi câu Phật hiệu (hay tham thoại đầu) cũng không khởi lên được.
Hỏi: sao “chơn nguyện” có thể tự khởi khi tâm đã Vô Niệm, không khởi lên được niệm nào (dù niệm Phật hay thoại đầu)?
Đáp: vì công phu đạt đến “Vô Niệm” nên hành giả kiến Tự Tánh Phật của chính mình, mà tánh Phật thì Từ – Bi – Hỷ – Xả vô lượng nên trong biển khổ của muôn vạn chúng sanh, tâm Phật của hành giả tự phát nguyện lập hạnh để cứu độ tất cả. Chính tâm nguyện Từ Bi tự nhiên lưu xuất từ tánh Phật của hành giả đó khế hợp với tâm Phật khắp 10 phương nên được Phật chứng. Tu đến đây, tâm Từ của hành giả đã trải rộng khắp 10 phương, hành giả đích thực là “Sứ giả Như Lai hành Như Lai sự”, tùy duyên khai thị, hóa độ chúng sanh, vô ngã vô pháp. Thế mới thấm thía lời Phật thọ ký năm xưa: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh nếu chí thành quy Phật phát Bồ-Đề tâm, là Phật sẽ thành nếu nhẫn lực tu hành chơn chánh y lời Phật dạy vì khổ luân hồi của muôn vạn chúng sanh”.
Rốt ráo mà nói, Vô Niệm tức Vô Ngã – Vô Pháp, còn nguyện, còn hạnh, còn tự ngã – chúng sanh, còn pháp để diễn bày sao. Tuy nhiên, xét thấy sự quan yếu của “hạnh nguyện người tu Phật” trong sự tu hành mà bất đắc dĩ, phải dụng ngôn để hiển bày lẽ đạo cho tỏ tường sự lý. Bản thân hành thiền, lập nguyện ra sao, nay chia sẻ Pháp hành đến Đại chúng. Mong Đại chúng liễu ý quên lời, tiến xa hơn nữa buông hết sự lý – tự ngã vướng mắc trong tâm, tinh tấn dụng công (tham thiền, niệm Phật) sao cho miên mật, giới hạnh vun bồi, mọi sự lấy Từ – Bi – Hỷ – Xả, Vô Ngã, Vô Trụ làm kim chỉ nam cho sự hành trì thì ắt có ngày thành tựu kiến Tánh, liễu thoát tử sanh!
Mong tất cả tỉnh tâm tu Phật!
Diệu Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật _()_
Diệu A Di Đà Phật _()_
Cổ Thiên